Trong bối cảnh nền kinh tế ngày càng phát triển và nhu cầu vận chuyển hàng hóa, hành khách ngày càng tăng cao, việc nâng cao nghiệp vụ vận tải cho lái xe và nhân viên phục vụ trở nên vô cùng quan trọng.
Không chỉ đảm bảo an toàn giao thông, mà còn nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng1. Bài viết này sẽ đi sâu vào các đặc điểm nghề nghiệp, nghiệp vụ vận tải cơ bản và đặc thù của lái xe và nhân viên phục vụ, nhằm cung cấp cái nhìn toàn diện và chi tiết về công tác vận tải ô tô trong thời kỳ hiện đại.
1. Đặc điểm nghề nghiệp.
1.1. Đặc điểm chung của vận tải ô tô.
Tính cơ động, linh hoạt cao, có thể vận chuyển thẳng từ điểm tới điểm. Vì vậy, vận tải bằng ô tô là phương thức vận tải rất phù hợp trong việc tiếp nối các phương thức vận tải khác như vận tải đường hàng không, đường sắt, đường thủy, hàng hải.
Ngoài đặc điểm chung nói trên thì hoạt động vận tải bằng ô tô có đối tượng vận chuyển là hành khách, hàng hóa là một đối tượng đặc biệt, biến động về không gian và thời gian hoặc có sự thay đổi về kinh tế – xã hội.
Trong điều kiện nước ta thực hiện cải cách, mở cửa, lượng hành khách trong nước, quốc tế và nhu cầu vận chuyển hàng hóa tăng nhanh với nhu cầu hết sức đa dạng do đến từ nhiều cộng đồng tầng lớp dân cư, nhiều nền văn hoá có bản sắc dân tộc và phong tục tập quán khác nhau.
1.2. Đặc điểm lao động nghề nghiệp.
Đặc điểm lao động nghề nghiệp của lái xe và nhân viên phục vụ trên xe vận tải hành khách.
– Lái xe và nhân viên phục vụ trên xe là những người lao động trực tiếp, người thay mặt chủ phương tiện cung cấp dịch vụ vận tải của đơn vị đến hành khách.
– Là nghề có tính độc lập tương đối cao: Người lái xe và nhân viên phục vụ trên xe khi đã ra đường là tự chủ; họ phải tự quyết định và xử lý các tình huống phát sinh trong quá trình vận chuyển; họ thay mặt đơn vị giao tiếp, ứng xử với hành khách và các đối tượng khác liên quan (người tham gia giao thông, lực lượng chức năng …) trong quá trình thực hiện vận chuyển; họ tham gia trực tiếp và có tính quyết định trong việc đảm bảo chất lượng dịch vụ của đơn vị.
– Tính chất nghề nghiệp: Là nghề lao động nặng nhọc, lưu động; tiềm ẩn rủi ro cao.
– Môi trường làm việc khó khăn, phức tạp về môi trường, khí hậu, địa hình,… luôn biến đổi, chịu ảnh hưởng của tiếng ồn và rung xóc; tiếp xúc giao lưu với nhiều phong tục, tập quán văn hoá và dân tộc khác nhau.
2. Các nghiệp vụ cơ bản.
Với mục đích đảm bảo an toàn giao thông cho người dân, nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải. Người lái xe ngoài việc thực hiện các nghiệp vụ theo quy trình về đảm bảo an toàn giao thông của đơn vị còn phải thực hiện các nghiệp vụ cơ bản dành cho người lái xe và nhân viên phục trên xe như sau:
2.1. Nghiệp vụ chung của lái xe.
Người lái xe trong quá trình tác nghiệp phải thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau đây:
2.1.1. Chuẩn bị làm việc.
Dưới đây là thứ tự hoạt động chính xác mà người lái xe cần thực hiện trước khi đưa xe vào hoạt động:
– Mặc quần áo đồng phục, đeo biển tên (nếu có quy định).
– Kiểm tra và mang theo các loại giấy tờ theo quy định của pháp luật.
– Nhận lệnh vận chuyển hoặc Giấy vận tải, xem kỹ các nội dung được ghi trong lệnh vận chuyển như thời gian hoạt động, tuyến đường vận chuyển, biểu đồ chạy xe.
– Nhận, kiểm tra tính hợp pháp (còn hạn hay hết) các giấy tờ kèm theo xe (đăng ký xe, bảo hiểm trách nhiệm dân sự, kiểm định ATKT và bảo vệ môi trường) và mang theo.
– Nhận xe để vận chuyển: Khi nhận xe, người lái xe phải thực hiện việc kiểm tra kỹ thuật an toàn của xe, nhiên liệu, dầu nhờn, nước làm mát, dụng cụ, đồ nghề, bình cứu hoả, các trang bị khác theo xe; đối với lái xe taxi phải kiểm tra thêm: đồng hồ tính tiền, đèn báo hiệu, bộ đàm.
– Tìm hiểu tình trạng đường, thời tiết, môi trường.
– Vệ sinh xe, khắc phục sự cố kỹ thuật.
– Trong quá trình hoạt động vận chuyển hành khách: Vệ sinh hoặc yêu cầu nhân viên phục vụ trên xe vệ sinh xe sạch sẽ sau mỗi lần phục vụ khách, mỗi lượt vận chuyển; Khắc phục ngay mọi sự cố kỹ thuật để đảm bảo an toàn khi xe hoạt động.
2.1.2. Đưa xe vào ca làm việc.
Dưới đây là thứ tự các nhiệm vụ mà người lái xe cần thực hiện sau khi đã hoàn thành công tác chuẩn bị:
– Thông báo cho người điều hành biết là xe đã sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ.
– Lái xe đến địa điểm đón hàng, khách (bến đi hoặc điểm đón hàng, khách).
– Thực hiện vận chuyển theo biểu đồ (hoặc tuyến đường) ghi trong lệnh điều động hoặc theo thông tin điều hành.
– Thực hiện hoặc phối hợp với nhân viên phục vụ trên xe trợ giúp hành khách là người tàn tật, người già khi lên xuống xe.
– Phối hợp với bến xe, chủ hàng, người xếp hàng kiểm tra hành khách, hàng hóa theo quy định.
2.1.3. Thực hiện các nhiệm vụ bất thường.
Dưới đây là các tình huống cụ thể mà người lái xe có thể phải xử lý trong quá trình hoạt động:
– Sơ cứu, cấp cứu tai nạn trong trường hợp có tai nạn.
– Sử dụng bình chữa cháy khi gặp sự cố cháy, nổ.
– Quan hệ với nhà chức trách để giải quyết các vấn đề pháp lý hoặc hành chính.
– Xử lý khi có kẻ gian, cờ bạc trên xe để đảm bảo an toàn cho hành khách và tài sản.
– Quan hệ ứng xử, hướng dẫn và hỗ trợ hành khách là người nước ngoài, người già, người yếu, trẻ em, phụ nữ có thai, có con nhỏ, người khuyết tật.
– Quan hệ với đồng nghiệp trong quá trình tham gia giao thông để phối hợp và hỗ trợ lẫn nhau.
Những tình huống này đòi hỏi người lái xe phải luôn bình tĩnh, linh hoạt và có kỹ năng xử lý tình huống tốt để đảm bảo an toàn và hiệu quả trong công việc.
2.1.4. Kết thúc ca làm việc (đối với đơn vị quản lý tập trung).
Dưới đây là các bước mà người lái xe cần thực hiện khi kết thúc một ca làm việc:
– Đưa xe về nơi quy định để bàn giao cho người có trách nhiệm.
– Bàn giao tình trạng chung của xe, bao gồm trang thiết bị trên xe và tình trạng kỹ thuật của xe.
– Kiểm tra và báo cáo lượng nhiên liệu còn trên xe.
– Bàn giao các giấy tờ của xe như: đăng ký, đăng kiểm, bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Những bước này giúp đảm bảo rằng xe luôn trong tình trạng tốt và sẵn sàng cho ca làm việc tiếp theo, đồng thời tuân thủ các quy định và quy trình an toàn.
2.2. Nghiệp vụ đặc thù của lái xe buýt.
Đặc thù của vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt là hoạt động trên một tuyến đường nhất định, thường là những tuyến đường có mật độ tham gia giao thông lớn, theo một biểu đồ nhất định và có nhiều điểm dừng, đỗ; đón, trả hành khách.
Công việc của người lái xe buýt thường được lặp đi lặp lại nhiều lần trong ngày và nhiều ngày trong năm. Hành khách đi xe buýt thường đi trên những đoạn đường ngắn và lên xuống liên tục và đi theo những thời gian nhất định trong ngày.
Vì vậy đối với lái xe buýt ngoài những nghiệp vụ chung được nêu ở điểm “Nghiệp vụ chung của lái xe” còn phải thực hiện một số nghiệp vụ quan trọng là phải thực hiện theo đúng biểu đồ chạy xe, dừng, đỗ; đón, trả khách tại những nơi quy định. Khi nhận lệnh điều động, người lái xe buýt phải xem và ghi nhớ biểu đồ chạy xe.
Khi hoạt động trên đường, người lái xe buýt phải chú ý quan sát và chủ động đưa xe ra vào các điểm dừng đỗ quy định. Không chuyển hướng đột ngột gây nguy hiểm đến người và các phương tiện khác tham gia giao thông trên đường, khi vào điểm dừng đón, trả khách.
Nhận biết và chú ý tín hiệu đèn, còi báo hiệu có hành khách xuống xe; Sử dụng thành thạo hệ thống hỗ trợ người khuyết tật (nếu xe buýt có trang bị). Sau mỗi lượt hoạt động, khi về đến đầu bến người lái xe phải yêu cầu nhân viên phục vụ trên xe vệ sinh trong ngoài xe sạch sẽ trước khi đưa xe vào hoạt động lượt tiếp theo.
2.3. Nghiệp vụ đặc thù của lái xe taxi.
Ngoài những nghiệp vụ chung đã nêu tại điểm “Nghiệp vụ chung của lái xe”, do đặc thù nghề nghiệp của người lái xe taxi là vận chuyển theo yêu cầu của hành khách nên người lái xe taxi cần có một số nghiệp vụ sau:
– Biết sử dụng đồng hồ tính tiền trên xe taxi;
– Thông thuộc mạng lưới tổ chức giao thông và các địa danh trong vùng hoạt động để phục vụ hành khách được tốt hơn;
– Ngoại ngữ và kiến thức về văn hóa sẽ giúp cho người lái xe taxi mang đến cho hành khách một chuyến đi thú vị;
– Cảnh giác với các đối tượng tội phạm lợi dụng thực hiện các hành vi trộm, cướp, tống tiền.
2.4. Nghiệp vụ của nhân viên phục vụ trên xe.
2.4.1. Chuẩn bị làm việc.
Dưới đây là các bước mà nhân viên phục vụ trên xe cần thực hiện trước khi đưa xe vào thực hiện nhiệm vụ:
– Mặc đồng phục, đeo biển tên (nếu có quy định).
– Phối hợp với người lái xe thực hiện công tác chuẩn bị làm việc.
– Nhận lệnh vận chuyển, ghi nhớ địa điểm đón, trả hàng hóa, hành khách; hành trình vận chuyển; dịch vụ phục vụ do đơn vị vận tải cung cấp.
– Kiểm tra và vệ sinh xe sạch sẽ trước khi đưa xe đi đón hàng, đón khách.
– Nhận và kiểm tra vật phẩm phục vụ cho hành khách theo dịch vụ đơn vị vận tải cung cấp như: nước uống, khăn lạnh, túi nôn.
– Tìm hiểu đối tượng hành khách mà mình phục vụ để lựa chọn cách phục vụ phù hợp.
Những bước này giúp đảm bảo rằng nhân viên phục vụ trên xe có thể cung cấp dịch vụ tốt nhất cho hành khách và đảm bảo an toàn trong suốt hành trình.
2.4.2. Đón và hướng dẫn, sắp xếp hành khách.
– Đón hành khách; trợ giúp hành khách những thông tin cần thiết, đặc biệt là đối với người nước ngoài;
– Sắp xếp hành khách lên xe theo số vé của hành khách, trong trường hợp hành khách không mua vé theo số ghế thì sắp xếp ưu tiên người tàn tật, người bị say xe, người già, phụ nữ có thai, trẻ em ngồi ở các vị trí phù hợp, thuận lợi.
2.4.3. Nhận và sắp xếp hành lý.
– Tiếp nhận và sắp xếp hành lý của hành khách đi xe; thực hiện đúng quy định về hành lý được miễn cước, tính cước phụ trội đúng quy định; phát tích kê (phiếu) hành lý ký gửi cho hành khách nếu có yêu cầu;
– Việc sắp xếp hành lý trên nguyên tắc hàng nặng, hàng đựng trong thùng cứng xếp phía dưới, hàng nhẹ, hàng dễ vỡ xếp trên;
– Việc kiểm tra hành lý bằng mắt thường là một việc làm khó khăn đòi hỏi nhân viên phục vụ trên xe phải rất tinh ý để tránh vận chuyển hàng quốc cấm, hàng nguy hiểm…
2.4.4. Kiểm tra vé, bán vé cho hành khách.
– Bán vé cho những hành khách chưa có vé;
– Kiểm tra vé, đảm bảo tất cả hành khách đi xe đều phải có vé;
– Trong trường hợp vận chuyển hành khách theo hợp đồng hoặc khách du lịch, nhân viên phục vụ trên xe phải đối chiếu số hành khách với danh sách hành khách (đối với chuyến xe ở cự ly theo quy định phải có danh sách hành khách).
Nếu chưa có danh sách hành khách thì phải lập danh sách hành khách để cơ quan chức năng kiểm tra giám sát.
2.4.5. Cung cấp các dịch vụ phục vụ hành khách.
Dưới đây là thứ tự sắp xếp lại các nhiệm vụ cung cấp dịch vụ phục vụ hành khách:
– Cung cấp những thông tin cần thiết về chuyến đi cho hành khách như: thời gian xuất bến; đến bến cuối; điểm dừng, nghỉ; thời gian dừng, nghỉ… những nội dung cơ bản về cam kết thực hiện chất lượng dịch vụ vận tải hành khách và số điện thoại đường dây nóng của đơn vị vận tải, tiếp nhận các ý kiến phản ánh của hành khách.
– Phát khăn lạnh, nước uống cho hành khách trong trường hợp đơn vị vận tải có cung cấp dịch vụ này trên hành trình.
– Chăm sóc, giúp đỡ những hành khách đặc biệt như người tàn tật, người già, phụ nữ có thai, trẻ em. Những người bị say xe phải được phát túi nôn và hướng dẫn sử dụng túi nôn.
– Tôn trọng hành khách, coi hành khách như bạn đồng hành trong suốt chuyến đi, hỗ trợ giúp đỡ hành khách khi họ cần.
– Bảo vệ hành khách và tài sản của hành khách khi đi xe.
– Không cho các đối tượng có những hoạt động phi pháp lên xe; khi phát hiện các đối tượng này lên xe, phải kịp thời báo cáo nhà chức trách hoặc yêu cầu các đối tượng này xuống xe.
– Trường hợp phát hiện đối tượng phạm pháp quả tang, phải cùng lái xe và hành khách bắt giữ.
2.4.6. Hỗ trợ lái xe thực hiện các tình huống đột xuất trên đường.
– Giúp lái xe trong những trường hợp như quay đầu xe, lùi xe trên đường, đi vào đường hẹp,…
– Hỗ trợ lái xe trong các tình huống khắc phục hỏng hóc đột xuất,…
3. Văn hóa ứng xử.
3.1. Đối tượng giao tiếp của lái xe, nhân viên phục vụ trên xe vận tải.
– Trong quá trình phục vụ hành khách, vận chuyển hàng hóa đi trên đường, qua nhiều vùng miền có địa hình, thời tiết, văn hóa khác nhau nên thường xuyên có nhiều tác động đến lái xe, nhân viên phục vụ trên xe và yêu cầu họ phải có một thái độ ứng xử đúng mức.
– Đối tượng giao tiếp của lái xe và nhân viên phục vụ trên xe trong quá trình vận tải là hành khách đi xe, là những chủ hàng hoặc những người cùng tham gia giao thông trên đường hoặc các lực lượng chức năng hoặc những đồng nghiệp trên xe khác.
3.2. Tác động từ hành vi ứng xử của lái xe, nhân viên phục vụ trên xe.
– Mọi hành vi ứng xử của lái xe và nhân viên phục vụ trên xe đối với con người, hay điều kiện ngoại cảnh đều có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dịch vụ vận tải của đơn vị.
– Thái độ chu đáo, vui vẻ, sự phục vụ tận tình của lái xe và nhân viên phục vụ trên xe với hành khách; chọn nơi dừng nghỉ để phục vụ nhu cầu của hành khách hợp lý, cung cấp đầy đủ thông tin về chuyến đi cho hành khách, luôn đứng về phía hành khách để bảo vệ lợi ích của họ…, chắc chắn sẽ làm cho hành khách vui vẻ, hài lòng với chuyến đi. Ngược lại có thể làm cho hành khách không hài lòng với chuyến đi.
– Việc xử lý tốt các thao tác khi lái xe như: không tăng tốc đột ngột, không phanh gấp, không tránh vượt ẩu trong quá trình vận chuyển, giúp cho hành khách đi xe đỡ mệt mỏi, những người say xe sẽ đỡ bị say.
– Khi gặp các điều kiện về thời tiết, địa hình, đường xá thay đổi đột xuất, nếu người lái xe và nhân viên phục vụ trên xe bình tĩnh xử lý sẽ làm cho chuyến đi an toàn và hành khách đi xe bớt đi nỗi sợ hãi.
– Những câu chuyện hoặc chỉ dẫn của lái xe và nhân viên phục vụ trên xe về văn hóa, phong tục tập quán của nơi đi qua có thể giúp cho hành khách đi xe quên đi sự mệt mỏi.
– Thậm chí trong nhiều trường hợp bất khả kháng như hỏng xe trên đường, hành khách đi xe vẫn có thể thông cảm và vui vẻ chấp nhận nếu được lái xe, nhân viên phục vụ trên xe ân cần, chân thành xin lỗi và có thái độ tích cực khắc phục.
3.3. Chuẩn mực hành vi ứng xử của lái xe, nhân viên phục vụ trên xe.
– Đối với hành khách: Phải có thái độ vui vẻ, hòa nhã trong giao tiếp; hướng dẫn phải tận tình, dễ hiểu; Coi hành khách như người thân, coi khách hàng là đối tác tin cậy; Săn sàng giúp đỡ hành khách khi có yêu cầu; Khách hàng luôn luôn đúng;
– Đối với người cùng tham gia giao thông: Nắm vững quy định của Luật Giao thông đường bộ và các quy định liên quan, tự giác chấp hành pháp luật, nhường đường khi cần thiết; Có ý thức tôn trọng người tham gia giao thông, bảo vệ môi trường.
– Đối với đồng nghiệp có tinh thần hợp tác, tương trợ, giúp đỡ đồng nghiệp.
– Đối với người thi hành công vụ phải nghiêm túc, hợp tác, chấp hành và có ý thức đấu tranh chống tiêu cực.
– Đối với các tác động khách quan phải bình tĩnh để đưa ra phương án ứng xử tốt nhất, có văn hóa và không nên quyết định vội vàng, nóng nảy,…
– Đối với các đối tượng trộm, cắp, cờ bạc lừa đảo hoặc các đối tượng hình sự khác phải kiên quyết không hợp tác, báo nhà chức trách để xử lý hoặc cùng hành khách để bắt giữ.
4. Khuyến cáo đối với người lái xe vận tải.
Mỗi người lái xe khi điều khiển phương tiện kinh doanh vận tải tham gia giao thông đều phải biết và làm để đảm bảo an toàn giao thông cho xã hội cũng như nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, chất lượng dịch vụ vận tải cho đơn vị.
4.1. Lái xe là một nghề nguy hiểm.
4.1.1. Nguy hiểm trong cuộc sống.
Mọi hoạt động của con người đều có thể gặp phải nguy hiểm. Nguy hiểm luôn rình rập chúng ta ở mọi lúc, mọi nơi và tồn tại trong tất cả các hoạt động của con người, thậm chí ngay cả khi chúng ta nghỉ ngơi vẫn có những nguy hiểm. Không phải mọi nguy hiểm đều dẫn đến tai nạn, mà chỉ một số ít trong số rất nhiều nguy hiểm tồn tại xung quanh chúng ta trở thành tai nạn.
Có những tai nạn gặp phải do lỗi chủ quan của chúng ta, chúng ta có thể tránh được bằng những hành vi phòng ngừa chủ động. Có những tai nạn gặp phải do khách quan, chúng ta không thể tránh được nhưng nếu chúng ta có hiểu biết và bình tĩnh xử lý tình huống sau khi gặp phải tai nạn chúng ta có thể làm giảm tác động xấu của các tai nạn đó.
Việc nhận biết được những nguy hiểm đang rình rập giúp chúng ta có thể chủ động phòng ngừa để không gặp phải tai nạn hoặc trong nhiều trường hợp chúng ta không thể tránh được tai nạn thì việc hiểu biết cũng giúp chúng ta có phương pháp ứng xử làm giảm bớt tác động xấu của các tai nạn mà chúng ta gặp phải.
4.1.2. Nguy hiểm trong khi lái xe.
Khi quan sát các phương tiện giao thông và người đi bộ tham gia giao thông trên đường bộ qua một máy ghi hình (camera) giao thông chúng ta thấy một sự chuyển động vô cùng hỗn loạn và ta sẽ hiểu tại sao lái xe ôtô là một công việc nặng nhọc, nguy hiểm và có nhiều rủi ro. Với người lái xe ô tô trên đường, nguy hiểm luôn rình rập họ, chỉ sơ sẩy một chút là tai nạn có thể đến bất cứ lúc nào.
Theo thống kê thì số người gặp tai nạn giao thông và bị chết trong tai nạn giao thông đường bộ cao hơn nhiều so với các tai nạn khác như: tai nạn lao động, tai nạn hàng không, tai nạn đường thủy, tai nạn đường sắt hay với các thảm họa khác như: hỏa hoạn, lũ lụt, bão,…
Những người trẻ tuổi thường thiếu kinh nghiệm nên gây ra tai nạn khi lái xe nhiều hơn là những người lớn tuổi và nhiều kinh nghiệm. Tuy nhiên những người lái xe nhiều kinh nghiệm không có nghĩa là đã thoát khỏi nguy cơ tai nạn. Nam giới lái xe bị tai nạn giao thông nhiều hơn nữ giới do họ liều lĩnh và bất cẩn hơn. Những người có tính cách ngổ ngáo, thích mạo hiểm thường có nguy cơ gặp phải tai nạn cao hơn.
4.2. Lời khuyên để lái xe an toàn.
Có những tai nạn xảy ra là do lỗi của người lái xe và cũng có tai nạn là do các yếu tố bên ngoài như: Tình trạng đường sá, thời tiết, hành động hoặc không hành động của những người tham gia giao thông khác cùng đi trên đường.
Ngoài các yếu tố khách quan, người lái xe có thể chủ động phòng ngừa, định đoạt được mức độ nguy hiểm khi lái xe thông qua cách lái xe của mình. Họ có thể lái xe cẩn thận để đảm bảo an toàn nhưng nhiều khi họ cũng có thể phóng nhanh, vượt đèn đỏ … làm gia tăng nguy cơ gây tai nạn. Dưới đây là một số kinh nghiệm giúp người lái xe an toàn hơn:
4.2.1. Không nên lái xe liều lĩnh.
Có những người thích tìm cảm giác mạnh trong những hoạt động mạo hiểm. Một số người thích cảm giác mạnh bằng cách lái xe liều lĩnh, họ thường xử lý các tình huống một cách mạo hiểm có nguy cơ gây tai nạn cao như: chạy vượt quá tốc độ giới hạn cho phép, bám sát theo đuôi xe chạy phía trước, chạy song song với xe cùng chiều, vượt xe trong đường hẹp,…
Họ lái xe như thế để thể hiện bản lĩnh của mình hoặc để chọc tức, hù dọa người lái xe khác. Nếu bạn là người thích liều lĩnh, bạn hãy tìm cảm giác mạnh ở những trò chơi mạo hiểm, không nên liều lĩnh khi lái xe. Sự liều lĩnh lái xe làm tăng nguy cơ tai nạn, dẫn đến tử vong hoặc thương tích cho mình và cho người khác là sự vô trách nhiệm.
4.2.2. Không quá tự tin khi lái xe.
Bất kể làm việc gì, đa số chúng ta thường tin vào tài năng, vào khả năng của mình. Tự tin là một đức tính tốt, nhưng khi lái xe quá tự tin có thể làm chúng ta đưa ra phương án xử lý mạo hiểm, làm tăng mức độ nguy hiểm.
Nghiên cứu cho thấy phần lớn những người lái xe tự đánh giá cao về khả năng lái xe của mình, coi mình giỏi hơn những người lái xe khác, những người lái xe trẻ tuổi thì có khuynh hướng đánh giá họ lái xe rất giỏi.
Điều đó chỉ ra rằng những người lái xe tự tin nhất lại thường là những người có ít kinh nghiệm nhất, họ tự tin quá mức và luôn có cảm tưởng rằng tài lái xe của mình có thể trội hơn khả năng thực sự của mình. Việc tự tin quá mức là nguyên nhân đưa đến nhiều vụ tai nạn giao thông.
Nó làm cho người lái xe đánh giá quá thấp khả năng gây ra tai nạn và sự tự tin quá mức sẽ gia tăng sau mỗi lần người lái xe xử lý thoát được những tình huống cận kề với tai nạn. Khi đó người lái xe sẽ cảm thấy mình lái xe giỏi và nghĩ rằng tai nạn, va chạm xe không thể xảy ra với mình. Hậu quả là có nhiều người lái xe, đặc biệt là những người dưới 25 tuổi bị tai nạn.
4.2.3. Không nên lái xe hung hăng.
Có người thích lái xe hung hăng bởi vì họ vốn có bản tính hung hăng. Người nào thường hung hăng trong cuộc sống thì lúc lái xe, người đó cũng có khuynh hướng hung hăng như vậy. Tuy nhiên, có người bản tính vốn bình tĩnh nhưng cũng có đôi lúc cũng hung hăng để “chơi” lại người lái xe khác mà họ nghĩ là đã chọc tức mình, ví dụ như chạy ngang đầu xe để dành đường, nhưng đó thật sự chỉ là một hành vi trả đũa người mà bạn xem là có hành động khiêu khích mình.
Hành động lái xe hung hăng có thể hiểu được, nhưng không thể chấp nhận được, vì hành động này sẽ gây nguy hiểm cho bạn và cho người khác. Lái xe trên đường là đã đủ nguy hiểm rồi, không cần phải tạo thêm nguy hiểm nữa.
Nếu bạn bình tĩnh và suy nghĩ điều đó, thì sẽ thấy rằng chúng ta ai cũng lầm lỗi khi lái xe. Cũng có lúc bạn có thể thấy mình là nạn nhân của người nào đó lái xe ẩu và muốn phản ứng lại, nhưng khi khác thì sự việc lại có thể đảo ngược. Đây chính là điều đáng ghi nhớ.
4.2.4. Không lái xe trong lúc mệt mỏi.
Mệt mỏi là một trong những yếu tố chính gây ra tai nạn giao thông. Tình trạng mệt mỏi thường biểu hiện như “buồn ngủ” và “mệt lả”. Mệt mỏi có tác động tâm lý, sinh lý đến khả năng lái xe an toàn của bạn.
– Ảnh hưởng của mệt mỏi: Mệt mỏi có thể làm sai lệch trầm trọng đến sự phán đoán của bạn trong lúc lái xe, chúng ta không tránh được mệt mỏi và tác hại của nó. Khi mệt mỏi chúng ta thường không xét đoán được mức độ mỏi mệt của chính mình.
– Dấu hiệu của sự mệt mỏi: Triệu chứng sự mệt mỏi của mỗi người lái xe mỗi khác, dấu hiệu cho thấy bạn đã mệt mỏi thường biểu hiện như: Mất tập trung, buồn ngủ, ngáp, phản ứng chậm chạp, mắt bị cay xè hay mỏi, chán nản, cảm thấy bứt rứt bồn chồn, ít chịu bẻ tay lái và khi bẻ thì bẻ nhiều hơn, không để ý đến biển báo trên đường, vô tình chợp mắt ngủ gục trong vài dây hoặc lâu hơn nữa rồi chợt tỉnh dậy (thậm chí bạn còn có thể không biết là mình đã ngủ và mắt có thể không nhắm).
– Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc bị mệt mỏi như: Trong những thời điểm nhất định trong ngày hoạt động tự nhiên của cơ thể bị tụt giảm (buổi đêm, gần sáng, buổi trưa và chiều tối); Làm việc nhiều giờ, thức khuya; mất ngủ; Mất ngủ.
Để giảm bớt gây tai nạn vì mệt mỏi, người lái xe cần phải: Thường xuyên ngủ đủ nhiều để tránh buồn ngủ; hạn chế lái xe vào những lúc mà thường khi chính là giấc ngủ của bạn; nếu lái xe lâu thì thường xuyên phải nghỉ, tạt xe vào lề đường và đỗ lại khi thấy buồn ngủ, cảnh giác khi chớm thấy có dấu hiệu mệt mỏi và đừng quá tự tin đến mức không chịu nghỉ hoặc không chịu cho người khác lái thay.
4.2.5. Tại sao phải làm chủ tốc độ khi lái xe?
Phóng nhanh làm bạn ít thời gian phát hiện và ứng phó với nguy hiểm có thể xảy ra ở dòng xe lưu thông phía trước. Chạy càng nhanh bạn càng cần nhiều khoảng đường để dừng xe, nếu mặt đường ướt thì cần khoảng đường nhiều hơn nữa.
Chúng ta phải mất 1,5 giây để nhận biết nguy hiểm và chuyển chân ga sang chân phanh trước khi bạn thực sự bắt đầu phanh. Với tốc độ 60 km/ giờ, bạn đã chạy được 25 mét trong khoảng thời gian này.
Càng chạy quá tốc độ giới hạn bao nhiêu thì rủi ro gây tai nạn càng nhiều bấy nhiêu. Nghiên cứu cho thấy trong khu vực có tốc độ giới hạn là 60 km/ giờ thì rủi ro gây tai nạn sẽ tăng gấp 2 lần cho mỗi 5 km /giờ mà chúng ta chạy quá tốc độ cho phép.
4.2.6. Giữ khoảng cách an toàn, bao nhiêu là đủ?
Càng có nhiều khoảng cách giữa xe của mình với các xe khác thì chúng ta càng có nhiều thời gian hơn để phát hiện và ứng phó với những nguy hiểm có thể xảy ra khi lái xe. Để giữ an toàn, chúng ta cần duy trì được khoảng cách xung quanh xe bao gồm cả ở phía trước, hai bên và phía sau.
– Giữ khoảng cách an toàn giữa hai xe: Loại tai nạn đâm vào đuôi xe đi phía trước xảy ra thường xuyên trên đường, đặc biệt thường gặp với những người lái xe ít kinh nghiệm. Để không bị đâm vào đuôi xe đi phía trước, khi xe đó phải dừng, chúng ta phải tăng khoảng cách giữa xe của mình với xe phía trước. Khoảng cách giữa hai xe phụ thuộc vào tốc độ mà chúng ta đang chạy, tốc độ càng nhanh bao nhiêu thì càng cần khoảng đường xa hơn để dừng xe.
Có một cách dễ dàng nhất để tránh đâm vào đuôi xe trước là dùng “quy tắc 3 giây” áp dụng cho bất kỳ tốc độ nào. Cách làm như sau: chúng ta nhìn xe phía trước chạy qua một vật nào đó bên đường chẳng hạn như cột đèn, cây hoặc biển báo. Khi xe đó chạy qua vật đó thì chúng ta bắt đầu đếm “một ngàn lẻ một”, “một ngàn lẻ hai”, “một ngàn lẻ ba”.
Nếu xe của chúng ta chạy ngang qua vật mà mình đã chọn trước khi đọc xong tất cả các số rồi, tức là chúng ta đã chạy nối đuôi quá sát. Chúng ta nên để khoảng cách với xe chạy trước nhiều hơn 3 giây khi trời mưa, sương mù, ban đêm bởi vì khó ước lượng được khoảng cách và phát hiện nguy hiểm trong những điều kiện như thế này. Quan sát thật xa phía trước và để ý canh chừng đèn báo phanh bật lên của các xe phía trước.
– Giữ khoảng cách an toàn hai bên và phía sau: Việc giữ khoảng cách an toàn quanh xe giúp chúng ta có chỗ trống để có thể phanh hay rẽ khi cần thiết, khoảng cách này phải đủ để tránh va chạm xe nếu có nguy hiểm xảy ra. Khoảng an toàn ở phía phải và trái: Cố giữ khoảng cách ít nhất là 1 mét giữa xe của chúng ta với các xe đang chạy hoặc đang dừng. Điều này cực kỳ quan trọng khi lái xe qua những xe đang dừng lại bên đường vì người ta có thể đột nhiên mở cửa xe.
Nếu trên đường có nhiều làn xe, chúng ta không nên chạy song song với xe đang chạy bên trái và phải, vì như vậy chúng ta không có khoảng trống để chạy sang phải, sang trái nếu có nguy hiểm xuất hiện phía trước. Cố giữ khoảng trống nào đó trong làn xe bên cạnh bạn để có cơ hội lái lạng qua nguy hiểm đó thay vì bị buộc phải phanh gấp để tránh đâm vào nó.
– Giữ khoảng cách an toàn ở phía sau: Duy trì khoảng cách an toàn ở phía sau là điều khó vì người lái xe ở phía sau mới làm chủ được khoảng cách giữa xe bạn và xe của họ. Nếu xe phía sau chạy quá sát xe bạn, bạn hãy chạy chậm lại để tăng khoảng cách phía trước bạn. Điều này có nghĩa là nếu bạn phát hiện có điều gì nguy hiểm ở phía trước và cần phanh thì bạn đã có sẵn khoảng cách an toàn rồi. Bạn có thể làm như vậy từ từ và như thế xe phía sau có nhiều thời gian để dừng lại.
4.2.7. Ai cũng có thể bị phân tâm trong lúc lái xe.
Bị phân tâm trong lúc lái xe cũng là một nguyên nhân làm tăng tai nạn giao thông. Người lái xe thường dễ bị phân tâm vì nghĩ ngợi những chuyện bên trong, bên ngoài xe làm họ không tập trung vào việc lái xe và tai nạn có thể xảy ra.
Nguyên nhân của sự phân tâm khi lái xe: Có rất nhiều nguyên nhân khiến người lái xe bị phân tâm khi lái xe, trong đó có sự phân tâm do tác động từ những vụ việc xảy ra ở bên ngoài xe (ví dụ như có một đoàn tàu chạy trên đường sắt bên cạnh đường bộ) hoặc bên trong xe và đôi khi sự phân tâm của lái xe không rõ nguồn gốc từ đâu.
Một số hoạt động ở bên trong xe làm phân tâm thường gặp nhất đối với lái xe là:
– Việc vặn điều chỉnh máy radio khiến lái xe bị phân tâm; Khi có người trong xe nói hoặc làm điều gì đó khiến lái xe bị phân tâm; Sử dụng điện thoại di động khi lái xe,… Lái xe thường dễ bị phân tâm khi có ý định làm điều gì đó phức tạp như rẽ trái trong lúc xe cộ đông đúc, hoặc tính chọn một khe hở an toàn để băng qua giao lộ đông xe.
– Nói chuyện với hành khách: mức độ của sự phân tâm này của lái xe có liên quan mật thiết với đối tượng hành khách đi xe. Những người lái xe trẻ khi di chuyển với hành khách cùng lứa tuổi thường bị phân tâm nhiều hơn khi đi cùng người lớn tuổi. Trong nhiều trường hợp những hành khách trẻ tuổi đi trên xe còn có thể khuyến khích người lái xe làm những chuyện liều lĩnh như: phóng nhanh, vượt ẩu và lái xe ngổ ngáo.
Để giảm bớt sự phân tâm, khi lái xe chúng ta không làm giảm được những việc làm phân tâm từ bên ngoài xe, nhưng chúng ta có thể làm giảm bớt được những chuyện phân tâm từ bên trong xe bằng cách đơn giản như sau:
– Tắt máy radio, hoặc giảm bớt âm thanh, đặc biệt trong những tình huống di chuyển trên đường mới lạ chưa đi bao giờ hoặc đường phức tạp; Không sử dụng điện thoại di động trong khi lái xe;
– Không để những vật dụng rời trong xe; Yêu cầu hành khách trong xe giữ im lặng và đừng làm cho bạn phân tâm; Đừng cố điều chỉnh máy radio hoặc mở đĩa CD, nhất là trong các tình huống lưu thông phức tạp.
4.2.8. Không để tâm lý hứng thú chi phối cách thức lái xe.
Hứng thú để làm những việc khác nhau thường khác nhau tùy thuộc vào sở thích của mỗi người. Hứng thú thay đổi tùy theo tâm trạng của con người trong từng thời điểm và tùy theo tầm quan trọng, mức hấp dẫn của sự việc nào đó đối với họ.
Hứng thú cũng ảnh hưởng rất lớn đến cách thức lái xe. Người lái xe rất có thể sẽ phóng xe nhanh và có lẽ đôi khi còn lái liều lĩnh vì trễ giờ đến bến, hoặc trên đường vắng người, hoặc không có bóng dáng cảnh sát giao thông hoặc đơn giản chỉ là vì bạn muốn về nhà sớm hơn.
Thực tế cho thấy rằng người lái xe bị thúc bách do giờ giấc hoặc bởi thời hạn chót hoàn thành một công việc thường dễ phóng xe nhanh và lái xe liều lĩnh. Ngay cả những người vốn lái xe cẩn thận cũng có thể làm những điều gây nguy hiểm. Họ sẽ biện hộ cho chính bản thân mình, với người khác, thậm chí với cả cảnh sát giao thông rằng điều họ làm là đúng, là cần thiết.
Đôi khi người lái xe bị cảm xúc chi phối hành động. Khi họ gặp điều gì đó bực mình như bị cảnh sát giao thông phạt, cãi nhau với ai đó,… họ thường lái xe chạy nhanh, lái xe bừa bãi hoặc ngổ ngáo hơn. Như vậy chúng ta cần ý thức một điều rằng không để tâm lý làm ảnh hưởng đến cách thức lái xe.
4.2.9. Dự đoán tình huống khi lái xe, đối phó với bất ngờ.
Người lái xe nào cũng dự đoán những điều có thể xảy ra và trên cơ sở kết quả dự đoán đó để đưa ra những phương án xử lý khi lái xe. Tuy nhiên, trong thực tế đôi khi sự việc xảy ra không đúng như chúng ta dự đoán, làm chúng ta bị bất ngờ. Ví dụ: Chúng ta sẽ bị bất ngờ khi có người chạy xe vượt đèn đỏ,…
Việc đối phó với những bất ngờ xảy ra trên đường là một việc làm hết sức khó khăn, chúng ta không thể thống kê được có bao nhiêu loại bất ngờ và không có một công thức nào, kỹ thuật nào có thể tiên liệu được những nguy hiểm đột nhiên xảy ra khi lái xe. Lời khuyên đưa ra là phải cảnh giác với những bất ngờ xảy đến khi lái xe. Áp dụng những kỹ năng sau có thể giúp bạn giảm bớt được những tai nạn bất ngờ:
– Luôn nhìn kỹ phía trước xe của bạn, liếc sang trái và phải; Quan sát chuyển động của đầu và mắt nhìn của các lái xe khác, thí dụ họ nhìn về hướng nào, nhìn bạn hay nhìn vật gì khác; Trông chừng người đi bộ, người đi xe đạp, người đi xe máy có thể bị vật gì hoặc xe khác che khuất.
– Tự cho mình nhiều thời gian để phát hiện đối phó, với những nguy hiểm và tạo ra khoảng cách hợp lý để làm vài điều gì đó nhằm tránh được tai nạn; Thận trọng trong những tình huống lạ như các biển báo nguy hiểm trên đường (sửa đường, đèo dốc nguy hiểm…)
– Làm sao cho người khác dễ nhìn thấy xe của bạn. Nếu trời tối, u ám hoặc mưa thì bật đèn phía trước ngay cả ban ngày; Chạy chậm cũng là cách đề phòng tốt vì bạn có thêm nhiều thời gian và khoảng cách để kịp thời đối phó với nguy hiểm.
4.2.10. Lưu ý khi lái xe trong thời gian sử dụng thuốc tân dược.
Ngoài các chất có cồn, thuốc tân dược cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng lái xe an toàn. Một số loại thuốc có thể ảnh hưởng đến khả năng lái xe an toàn của chúng ta như: thuốc giảm đau, thuốc để chữa trị huyết áp, thuốc chống nôn, thuốc chống dị ứng, viêm sưng, thuốc trị nhiễm vi khuẩn nấm, thuốc an thần, thuốc ngủ, thuốc giúp ăn kiêng, thuốc trị cảm cúm,…
Các loại thuốc có ảnh hưởng đến việc lái xe thường được dán nhãn lưu ý trên vỏ bao bì hộp thuốc. Khi bạn dùng thuốc thì nên đọc những nhãn đó để xem có lưu ý gì liên quan đến việc lái xe không. Nếu có nghi ngờ thì nên hỏi ý kiến của bác sĩ hoặc dược sĩ xem những thuốc đó có ảnh hưởng đến khả năng lái xe an toàn hay không.
Cần lưu ý: Nhiều loại thuốc tân dược, ma túy lưu trong cơ thể trong thời gian dài và vì vậy nó vẫn ảnh hưởng đến việc lái xe sau khi bạn ngừng uống thuốc.
Nhiều loại thuốc tân dược, ma túy có phản ứng nghịch với nhau đến độ có thể ảnh hưởng đến khả năng lái xe an toàn của bạn. Thí dụ uống rượu trong khi đang dùng loại thuốc có chứa chất ma túy theo đơn của bác sỹ có thể sẽ rất nguy hiểm. Vì vậy phải đọc hướng dẫn sử dụng thuốc cẩn thận và hỏi lại bác sỹ hoặc dược sỹ để được chỉ dẫn.
Cần lưu ý rằng việc dùng ma túy bất hợp pháp ảnh hưởng rất xấu đến việc lái xe và nó có thể phản ứng nghịch với bia, rượu hoặc những loại thuốc tân dược khác. Nếu bạn bắt buộc phải dùng thuốc trong khi lái xe hãy hỏi bác sĩ hoặc dược sĩ xem có loại thuốc nào thay thế được mà không ảnh hưởng đến việc lái xe.
4.2.11. Việc nhận lỗi thành thật giúp bạn tránh được những sai lầm.
Bản năng của con người là không ai thích nhận rằng mình sai trái hoặc mình có lỗi, đó là lý do tại sao nhiều người lái xe gây tai nạn, không muốn nhận lỗi do mình gây ra. Bằng các nghiên cứu khoa học cho thấy rằng, người nào thành thật nhận lỗi do mình gây ra thì người đó lái xe an toàn hơn. Cái khó là dám thẳng thắn nhận lỗi của mình gây ra.
Người lái xe thường có khuynh hướng quy tất cả hay một phần lỗi của vụ va chạm cho người lái xe kia hoặc cho tình trạng đường, cho thời tiết, mà không chịu nhận lỗi về mình. Họ thường viện lý rằng việc này xảy ra là do yếu tố không dính dáng gì đến bản thân họ.
Phần lớn các tai nạn giao thông đường bộ ở Việt Nam là do lỗi của con người không chấp hành nghiêm Luật Giao thông đường bộ, ý thức kém khi tham gia giao thông, hạ tầng giao thông lạc hậu, kém phát triển, sự gia tăng nhanh chóng của phương tiện giao thông cá nhân,..
4.2.12. Không lái xe trong tình trạng cơ thể có chất cồn (bia, rượu,…).
Không lái xe khi trong cơ thể có chất cồn thì sẽ không những giảm được tai nạn mà còn giảm được nguy cơ gây tử vong trong trường hợp ta bị thương nặng. Khi nồng độ cồn trong máu của người lái xe tăng lên thì nguy cơ xảy ra tai nạn cũng tăng theo. Nồng độ cồn bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như trọng lượng cơ thể, nam hay nữ hoặc lượng cồn bạn uống trong một khoảng thời gian nào đó. Rất khó cho mỗi người lái xe là họ không biết chính xác mình có thể uống bao nhiêu mà vẫn giữ được tỉnh táo.
Vì vậy lời khuyên tốt nhất là: Đừng uống chất có cồn nếu sắp lái xe và đừng lái xe khi đã uống. Việc lái xe trong tình trạng cơ thể có chất cồn là một trong những nguyên nhân chính gây ra nhiều vụ tai nạn giao thông. Một số ảnh hưởng của chất cồn trong cơ thể đến việc lái xe:
– Người lái xe thường có khuynh hướng phóng quá tốc độ giới hạn, không để ý các biển báo và đèn tín hiệu giao thông; Làm giảm khả năng tập trung, nhận biết các nguy hiểm, làm chậm phản xạ khi bạn cần xử lý phanh xe hay đánh lái để tránh chướng ngại vật; Người lái xe sẽ gặp khó khăn trong việc điều khiển xe trên đường đặc biệt là lúc trời tối và đường không thẳng;
– Khi người lái xe có chất cồn trong máu thì rất dễ thiệt mạng nếu họ bị thương nặng. Chất cồn có ảnh hưởng bất lợi cho cơ thể khi cơ thể phải chống trả với thương tích và những việc khác chẳng hạn như mất máu. Việc chữa trị khẩn cấp cho người lái xe bị thương mà có chất cồn trong cơ thể thì cũng khó hơn nhiều so với người lái xe bị thương mà không có chất cồn trong cơ thể.
4.2.13. Lưu ý giảm bớt rủi ro gây tai nạn vì tốc độ người lái xe cần phải làm gì?
Lái xe trong phạm vi tốc độ cho phép; – Lái xe chậm trước khi vào đường cong hoặc đoạn đường có “cua tay áo” – phanh xe nhanh trên đoạn đường cong có nguy hiểm; Coi chừng và để ý những biển báo cho biết sắp tới đường cong hoặc những nguy hiểm khác phía trước và hãy chạy chậm lại trước khi bạn tới những nơi đó.
Nếu thời tiết xấu hoặc không nhìn rõ, thì chạy xe chậm lại ở tốc độ mà mình có thể dừng hoặc phanh gấp nếu xuất hiện nguy hiểm; Tuân theo tốc độ quy định trên biển báo và điều chỉnh tốc độ thích hợp với hoàn cảnh sẽ giúp tránh được tai nạn.
4.2.14. Lái xe vào ban đêm, lái xe trong điều kiện thời tiết và địa hình khác nhau.
Khả năng đối phó được với những thay đổi và thử thách trên đường là một kỹ năng quan trọng mà người lái xe nào cũng cần phải phát triển và duy trì. Những điều bất lợi như: đường xấu, thời tiết xấu thì tự bản thân nó không mấy khi gây ra tai nạn. Đa phần những vụ tai nạn giao thông xảy ra vì người lái xe không thích nghi được với môi trường thay đổi.
Việc người lái xe vẫn cứ tiếp tục phóng nhanh khi trời mưa lớn hay sương mù dầy đặc hay trên những con đường chật hẹp, quanh co mà họ không nhìn thấy được những gì phía trước là rất nguy hiểm.
Lái xe vào ban đêm, người lái xe ban đêm thường chủ quan cho xe phóng nhanh vì nghĩ là đường vắng, xe cộ thưa thớt; bên cạnh đó, trời tối khiến cho mắt không nhìn thấy được những dấu hiệu nhắc nhở đến tốc độ.
Đối phó với những điều kiện lái xe bất lợi, người lái xe không thể làm cho mưa tạnh, sương mù tan, làm cho mặt đường tốt lên hoặc làm cho trời sáng, nhưng chúng ta có thể kiềm soát được tốc độ của mình, giữ được khoảng cách giữa xe của mình và xe phía trước để có nhiều thời gian phát hiện và đối phó với nguy hiểm.
Làm chủ tốc độ, giữ khoảng cách an toàn và làm cho người khác dễ trông thấy xe của chúng ta (bằng cách bật đèn) là những việc làm cần thiết nhằm tránh tai nạn trong những điều kiện bất lợi.
4.3. Lái xe đối với từng loại hình kinh doanh vận tải.
4.3.1. Lái xe buýt.
Do đặc thù của hoạt động vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt, người lái xe buýt cần: Đưa xe xuất bến đúng giờ theo biểu đồ được phân công; Đón, trả hành khách đúng điểm dừng đỗ theo quy định; không được bỏ bến làm ảnh hưởng đến việc đi lại của hành khách; Khi ra vào bến xe phải chú ý quan sát và chuyển làn dần trước khi vào bến; Hạn chế sử dụng còi khi đi trong thành phố; Không rồ ga, tăng tốc đột ngột gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến người tham gia giao thông.
4.3.2. Lái xe taxi.
Do đặc thù của hoạt động vận tải hành khách bằng xe taxi, người lái xe taxi cần: Phải bấm đồng hồ tính tiền khi hành khách lên xe; Đi theo hành trình yêu cầu của hành khách hoặc hành trình có lợi nhất cho hành khách; trao hóa đơn, phiếu thu cho hành khách khi khách thanh toán tiền; Khi chở hành khách trong đêm, đi qua những đoạn đường vắng phải cảnh giác và đề phòng kẻ gian, nếu có dấu hiệu nghi ngờ phải khôn khéo từ chối.
5. Khuyến cáo đối với nhân viên phục vụ trên xe vận tải.
– Cảnh giác, kịp thời phát hiện và ngăn chặn kẻ gian lợi dụng hành khách đi đường xa mệt mỏi để lấy đồ của hành khách;
– Khi phát hiện những đối tượng có hành vi móc túi, lừa đảo, cờ bạc bịp,… trên xe cần ngăn chặn kịp thời hoặc thông báo cho lái xe, hành khách, cơ quan chức năng để phối hợp ngăn chặn, xử lý.
– Không được lái xe hoặc sử dụng chìa khóa điện của xe để mở đài, mở cửa hơi,…
* Sự phối hợp của lái xe và nhân viên phục vụ trên xe như thế nào?
Lái xe và nhân viên phục vụ trên xe là những người tạo thành một ê kíp làm việc trên mỗi chuyến xe. Việc phối hợp hài hòa, chặt chẽ trong công việc của họ sẽ tạo ra không khí làm việc thoải mái và hỗ trợ nhau trong công việc được tốt hơn.
Khi vận chuyển hành khách trên đường có rất nhiều công việc đòi hỏi phải có sự phối hợp của lái xe và nhân viên phục vụ trên xe như:
– Phối hợp vệ sinh, lau rửa xe;
– Phối hợp trong việc sắp xếp hành lý cho hành khách;
– Phối hợp trong việc giải quyết các sự cố hỏng hóc đột xuất của xe;
– Phối hợp trong việc đưa xe ra vào bãi đỗ, quay đầu xe hay lùi xe trên đường;
– Hỗ trợ trong các công việc khác mà chỉ lái xe hay nhân viên phục vụ trên xe không thể làm được.
– Phối hợp ngăn chặn kẻ gian lên xe trộm đồ, móc túi của hành khách hoặc lôi kéo hành khách vào các trò chơi cờ bạc.
Tác giả: Đào Đình Bình
Bạn đang xem bài viết:
Nâng cao nghiệp vụ vận tải cho lái xe và nhân viên phục vụ
Link https://vnlibs.com/o-to/nang-cao-nghiep-vu-van-tai-cho-lai-xe-va-nhan-vien-phuc-vu.html