Ý chí con người trong Tâm Lý Học

Trong cuộc sống của con người, bên cạnh nhận thức và tình cảm thì ý chí đóng một vai trò quan trọng. Khi con người tồn tại trong cuộc sống, củng với những thách thức thì ý chí xuất hiện và trở thành điều kiện rất quan trọng để giúp con người phát triển.

Trong đời sống tâm lý ý chí tồn tại như một hiện tượng tâm lý hết sức đặc biệt giúp con người tạo nên những sức mạnh tâm lý để có thể giải quyết nhiều khó khăn trong cuộc sống. Tuy nhiên, ở một góc độ khác thì có cá nhân có những biểu hiện ý chí thật mãnh liệt cũng như có những cá nhân khá hạn chế trong khi giải quyết những vấn đề liên quan đến nghị lực – ý chí. Chính vì thế, ý chí là một trong những vấn đề tâm lý của cá nhân hết sức độc đáo.

1. Ý chí.

1.1. Định nghĩa.

Hiểu một cách đơn giản trong cuộc sống thì ý chí là khả năng vượt khó, là sức mạnh của sự nỗ lực ở con người. Theo nghĩa thông thường, ý chí được dùng tương đồng với những từ như: có chí, nghị lực, vượt khó…

Ở một cái nhìn bao quát, ý chí là khả năng giúp con người hoàn thành những hành vi đã định nhằm đạt được mục đích đề ra, đó chính là khả năng điều hòa và điều khiển có ý thức hành vi của bản thân mình. Theo quan niệm này, ý chí là một khả năng tiềm ẩn trong mỗi con người và khi đứng trước những hoàn cảnh hay những điều kiện thì khả năng này sẽ được bộc lộ để hỗ trợ con người giải quyết những vấn đề nhất định.

Ở một góc độ khác, ý chí chính là sự tập trung cao độ của tinh thần cho phép con người ức chế những yếu tố không liên quan hay không ảnh hưởng trực tiếp đến việc giải quyết vấn đề nhằm đạt được một mục đích nào đó. Trên cơ sở đó, tất cả những yếu tố thuộc về sức mạnh tinh thần sẽ hỗ trợ con người để hướng đến mục tiêu đã định để giải quyết vấn đề đang đặt ra hay nhiệm vụ đang thách thức. Trong những trường hợp thế này, ý chí sẽ đẩy con người hướng đến một trạng thái tập trung cao độ và định hướng khá sâu sắc vượt qua tất cả những khó khăn, những áp lực hay những thử thách để hoàn thành nhiệm vụ.

Những quan niệm trên cho thấy có thể hiểu ý chí là mặt năng động của ý thức, biểu hiện ở năng lực thực hiện những hành động có mục đích, đòi hỏi phải có sự nỗ lực khắc phục khó khăn bên ngoài và bên trong. Khi nhìn nhận về ý chí, có thể nhận thấy trong ý chí của con người có sự tham gia một cách sâu sắc của nhận thức và tình cảm.

Trước hết, sự tham gia của nhận thức giúp con người nhận thấy đây là một vấn đề rất quan trọng, một nhiệm vụ rất có ích, một trách nhiệm phải hoàn thành. Đó chính là một mục đích đã được nhận thức một cách khá rõ ràng, cụ thể và chi tiết.

Mục đích ấy trở thành một nhiệm vụ được định hướng kèm theo một khát khao mạnh mẽ và mãnh liệt phải đạt được nó, phải thực hiện được một cách hiệu quả. Để thực hiện mục đích đã xác định con người phải huy động sức mạnh đích thực về mặt tinh thần và trong trạng thái ý chí, con người luôn có sự tập trung cao độ của trí tuệ.

Trong lúc đó, từ khi con người nhận thức một cách sâu sắc về mục tiêu, quan tâm đến khả năng thực hiện và điều kiện của chính mình cũng như hoàn cảnh xung quanh; kế đến con người sẽ thực sự chú trọng đến phương cách để giải quyết vấn đề nhằm đạt được mục đích nên con người luôn huy động một cách tối đa ý thức của mình. Ở đây, ý chí được xem như sự năng động của ý thức và ý thức tham gia một cách hữu hiệu cũng như đóng góp một cách sâu sắc trong quá trình tạo nên sức mạnh đích thực của ý chí.

Ý chí được xem như một hiện tượng tâm lý và ý chí cũng phản ánh hiện thực khách quan một cách khá đầy đủ và sắc nét để xác định mục đích của hành động. Mục đích ấy không có sẵn mà là mục đích được con người nhận thức một cách tự giác, chủ động.

Mục đích tồn tại là do nhận thức của con người trong sự tương tác với hiện thực khách quan cũng như mục đích do các điều kiện từ hiện thực khách quan quy định. Ở đây, cần nhấn mạnh về điểm hội tụ giữa nhận thức và tình cảm vì khi con người nhận thức được mục đích cần thực hiện, con người sẽ tập trung tình cảm vào mục đích ấy mới có thể huy động được sức mạnh.

Không chỉ là nhận thức mạnh mẽ và sâu sắc về mục đích nhưng chính con người phải cảm nhận mình rất mong muốn đạt được mục đích ấy, mình thực sự khát khao, mình thực sự mong chờ và sẽ hối tiếc nếu mình không nỗ lực, ý chí sẽ dần xuất hiện. Chính sự tương tác và gắn bó hết sức mật thiết giữa tình cảm và nhận thức đã làm cho ý chí trở nên mạnh mẽ.

Ý chí tồn tại còn được xem xét như hình thức tâm lý điều chỉnh hành vi của con người một cách tích cực. Điều dễ dàng nhận thấy ở đây là ý chí tồn tại như một động lực giúp con người vượt qua mọi khó khăn để hướng đến mục đích đã được xác định. Quá trình vượt qua khó khăn này không hề đơn giản vì nó đòi hỏi con người phải hết lòng và hết sức để có thể hướng đến mục tiêu bằng mọi nỗ lực.

Ở đây, có lúc con người phải khắc phục những nhu cầu cá nhân hay những nỗi sợ của cá nhân. Nổi bật lên trong đó là khả năng ức chế nhu cầu của con người, khả năng kìm hãm những đòi hỏi tạm thời để hướng đến một mục tiêu đã được khát khao. Ở đây, cũng cần nhấn mạnh rằng ý chí được xem như là một khả năng kiểm soát, điều chỉnh hành vi một cách có ý thức nảy sinh trong hoạt động của con người.

Đó chính là một đặc trưng rất “người” ở con người vì nếu như con vật thích ứng một cách bị động hoặc chỉ có những hành động nỗ lực một cách giản đơn trong những tình huống nhất định thì con người luôn có sự nỗ lực rất hết lòng và hết sức.

Chính sự đòi hỏi của cuộc sống cùng với những khát khao chiến thắng và chinh phục thiên nhiên, cuộc sống đã thôi thúc ý chí của con người hiện hữu. Ý chí của con người cũng mang màu sắc khác nhau ở mỗi cá nhân cho nên nó cũng được xem như một năng lực. Điều này có nghĩa là một số cá nhân có khả năng ý chí rất cao và một số cá nhân thì còn hạn chế trong khả năng ý chí.

Ngay cả khi xét ý chí trong điều kiện xã hội khác nhau thì ý chí con người cũng được hình thành và biến đổi tùy theo những điều kiện xã hội – lịch sử, tùy theo những điều kiện vật chất của đời sống xã hội. Tính chất của những mục đích và những thúc đẩy đối với hành động ở con người được quyết định ở chỗ từng người tạo lập và biến đổi nhu cầu của bản thân. Nói như thế để thấy xu hướng của ý chí có thể khác nhau trong những thời đại khác nhau.

Khi xem xét về việc khắc phục những khó khăn bên ngoài và bên trong để đạt được mục đích, sẽ cảm tính nếu như không quan tâm thực sự đến điều kiện thực tế. Để vượt qua được tất cả những điều kiện thực tế, con người sẽ huy động sức mạnh tâm lý của mình để cho ý chí xuất hiện.

Ở đây, mục đích hành động của con người được phản ánh trong ý chí là do những điều kiện cụ thể của hoạt động khách quan quy định. Trong khi điều khiển hành vi con người, với sự nỗ lực của bản thân chủ thể, ý chí đã thể hiện tính tích cực, đã thể hiện sự tự do tương đối của chủ thể trong việc lựa chọn các điều kiện, phương tiện, phương pháp để đạt được mục tiêu.

Khi đánh giá về sự nỗ lực của con người, không thể không quan tâm về sự nỗ lực ấy trong mối quan hệ với giá trị của mục tiêu hay là sự hợp lý và chân chính của mục tiêu. Nói khác hơn, giá trị chân chính của ý chí không phải ở điểm ý chí đó như thế nào (mạnh hay yếu, cao hay thấp, quyết chí hay không quyết chí…) mà còn thể hiện ở chỗ nó hướng vào cái gì.

Khi phân tích ý chí hướng vào cái gì, cần nhìn nhận trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với công việc – nghề nghiệp, giữa cái tôi và chúng ta, giữa mong mỏi cá nhân và đòi hỏi của cộng đồng, chuẩn mực của xã hội… Đó cũng chính là vấn đề cần chú ý khi nhìn nhận về ý chí hay nói cụ thể là phải phân biệt mức độ của ý chí và nội dung đạo đức của ý chí.

1.2. Vai trò của ý chí.

Ý chí là quá trình chống lại đam mê, dục vọng bên trong và những áp lực – khó khăn của thế giới bên ngoài, phát huy sự tự do của con người. Dục vọng của con người nếu bị buông lỏng sẽ gây nên những ảnh hưởng không tốt đến cuộc sống của cá nhân cũng như xã hội cho nên ý chí là một trong những phương thức góp phần kiểm soát hành vi, phát triển tâm lý.

Ý chí giúp con người có sức mạnh phi thường, vượt qua muôn vàn khó khăn trở ngại tưởng chừng không vượt nổi. Nhờ ý chí mà con người tổ chức được hoạt động của mình, biến đổi được thế giới tự nhiên và cả thế giới xã hội, tạo ra được những giá trị vật chất – tinh thần góp phần thực hiện được sự đi lên của cuộc sống.

Ý chí làm cho đời sống con người và đời sống xã hội sẽ phong phú hơn khi nhờ vào sự năng động của ý thức, con người luôn hướng đến một định hướng tốt hơn, mới hơn và hoàn thiện hơn.

1.3. Một số phẩm chất của ý chí.

Trong quá trình sống và hoạt động, con người sẽ dần hình thành những phẩm chất ý chí cần thiết để tồn tại và phát triển. Cũng chính nhũng phẩm chất này đặc trưng cho nhân cách của con người. Nó sẽ là nền tảng hay điều kiện thực hiện những mục đích hay lý tưởng sống của con người khi hỗ trợ con người vượt qua những khó khăn và thách thức. Có thể đề cập đến những phẩm chất sau của ý chí: tính mục đích, tính độc lập, tính quyết đoán, tính kiên trì và tính tự chủ.

1.3.1. Tính mục đích.

Đây là một phẩm chất quan trọng của ý chí liên quan chặt chẽ đến khả năng đề ra mục đích trong hoạt động và trong cuộc sống của mình. Ngoài ra, tính mục đích giúp con người biết điều khiển hành vi của mình phục tùng vào định hướng đã được xác lập một cách tự giác, mạnh mẽ.

Với tư cách là chủ thể, tính mục đích của con người cho phép con người xác định mục đích gần và mục đích xa, mục đích bộ phận hay mục đích tổng thể của cuộc đời… Tính mục đích trong ý chí của con người phụ thuộc vào thế giới quan và những nguyên tắc đạo đức nhất định mà người đó lãnh hội.

Nói khác hơn, tính mục đích bị ảnh hưởng bởi lý tưởng sống và nguyên tắc sống của cá nhân. Vì vậy, khi xem xét tính mục đích trong ý chí của một cá nhân, không chỉ xem xét ở góc độ hình thức mà cần quan tâm cả góc độ nội dung.

1.3.2. Tính độc lập.

Tính độc lập liên quan đến khả năng đưa ra những quyết định và thực hiện hành động đã dự định mà không chịu ảnh hưởng bởi người khác. Tính độc lập trong ý chí còn thể hiện ở điểm chủ thể không bị ám thị hay áp đặt suy nghĩ, hành động bởi một đối tượng khác khi mình đã có suy nghĩ, cân nhắc và đưa ra những sự lựa chọn.

Tuy nhiên, tính độc lập không phải là sự bướng bỉnh hay sự cứng nhắc để khăng khăng chống lại những ý kiến, những suy nghĩ khác với mình. Tính độc lập vẫn cho phép con người từ bỏ những ý kiến, những suy nghĩ của mình để chấp nhận ý kiến người khác, để điều chỉnh thái độ và hành vi sao cho phù hợp hơn, hiệu quả hơn. Tính độc lập giúp cho con người hình thành được niềm tin và sức mạnh vào bản thân vào những suy nghĩ và năng lực của chính mình trong hoạt động và cuộc sống.

1.3.3. Tính quyết đoán.

Tính quyết đoán là phẩm chất của ý chí liên quan chặt chẽ đến khả năng đưa ra những quyết định kịp thời, dứt khoát mà không có những tình trạng dao động không cần thiết hay phụ thuộc vào những tác động xung quanh. Tính quyết đoán được thể hiện vẫn dựa trên nền tảng của sự suy nghĩ, cân nhắc và phân tích một cách thấu đáo. Đó là lúc mà sự tham gia của nhận thức được thể hiện một cách rõ nét để con người đưa ra những quyết định hay những hành động có căn cứ.

Một con người có tính quyết đoán sẽ có thể làm chủ được hoạt động trí tuệ cũng như hoạt động thực tiễn của chính mình, giúp cho họ có niềm tin vào sự quyết định sẽ thành công khi có suy nghĩ đúng đắn và hợp lý. Tính quyết đoán của ý chí không chỉ xuất phát từ trí tuệ vì khi con người phải thực sự mạnh mẽ thì mới có thể quyết đoán.

Một người mà không có tính quyết đoán thì hay do dự, dao động và đưa ra những quyết định không kịp thời hay thực hiện những hành động không đúng lúc. Mặt khác họ cũng hay hoài nghi, hay trăn trở một cách quá đáng về những thời điểm cần phải tiến hành hành động. Một người có tính quyết đoán chắc chắn phải có hành động dứt khoát, kịp lúc và không bị chần chừ hay dao động. Chính vì vậy, tiền đề cũng khá quan trọng của tính quyết đoán chính là lòng dũng cảm.

1.3.4. Tính kiên trì.

Tính kiên trì của ý chí liên quan đến khả năng vượt khó để đạt được mục đích dù rằng quá trình thực hiện ấy có thể ngắn nhưng cũng có thể rất dài. Tính kiên trì này thể hiện cường độ của ý chí mà đó chính là sự bền bỉ làm cho cá nhân không cảm thấy mệt mỏi, chán nản. Những thách thức và khó khăn dù có tác động cũng không làm cho cá nhân nhụt chí mà còn làm cho cá nhân có thêm sức mạnh và nghị lực để vượt qua tất cả những rào chặn phía trước hành trình thực hiện mục đích của chính mình.

Tuy nhiên, kiên trì cũng không phải là lì lợm và ương bướng. Cần phân biệt tính kiên trì trong ý chí với tính lì lợm, bướng bỉnh ở một số cá nhân vi những suy nghĩ cảm tính và chủ quan hay vì những thói quen không muốn tiếp nhận hoặc không muốn đổi thay.

1.3.5. Tính tự chủ.

Tính tự chủ liên quan đến khả năng làm chủ được bản thân trong những trường hợp có sự xung đột tâm lý bên trong. Tính tự chủ giúp con người duy trì được sự kiểm soát các hành vi của bản thân như: chiến thắng những đòi hỏi không hợp lý, chiến thắng những suy nghĩ tiêu cực hoặc những xúc cảm âm tính.

Tính tự chủ còn liên quan đến khả năng kiểm soát, làm chủ được những xúc động, cảm xúc xảy ra không đúng lúc và không hợp lý của con người trong hoạt động và giao tiếp. Tính tự chủ liên quan mật thiết với khả năng quản lý cảm xúc của chính mình trong hoạt động khi thực hiện những sự tương tác để hướng đến mục tiêu đã được xác định.

Đó chính là nền tảng để con người hạn chế sự được nóng giận, cọc cằn hay sự thô lỗ hoặc những phản ứng quá khích. Phẩm chất này liên quan chặt chẽ với khả năng giao tiếp của con người cũng như sự vận dụng giao tiếp khi thực hiện những hoạt động nhất định.

2. Hành động ý chí.

2.1. Định nghĩa.

Hành động ý chí hiểu một cách đơn giản là những hành động thực hiện theo sự nỗ lực của ý chí, sự cố gắng của nhận thức – hành vi. Theo nghĩa thông thường, hành động ý chí được sử dụng với một số thuật ngữ tương đương như: hành động quyết chí, hành động nỗ lực hành động hết mình…

Hành động ý chí thể hiện mối liên hệ với ý thức về mục đích và cách thức hành động giúp con người mạnh mẽ, tự tin và quyết chí thực hiện nhằm đạt kết quả như mong đợi. Tóm lại, có thể hiểu về hành động ý chí như sau: Hành động ý chí là hành động có ý thức, có chủ tâm, đòi hỏi nỗ lực khắc phục khó khăn thực hiện đến cùng mục đích đã đề ra.

2.2. Đặc điểm hành động ý chí.

Hành động ý chí có thể được phân tích trên bình diện là một hành vi có sự nỗ lực ý thức cao trong một hoàn cảnh nên mang những đặc điểm sau:

2.2.1. Hành động ý chí mang tính mục đích.

Hành động ý chí mang tính mục đích tự giác do nó quan hệ mật thiết với nhận thức. Trước khi con người thực hiện hành động ý chí, con người luôn quan tâm đến mục đích của hành động, ý nghĩa của hành động cũng như điều kiện thực hiện hành động… Tư duy sẽ thôi thúc con người đặt những câu hỏi như: hành động để đạt được mục đích gì, hành động để làm chi, hành đóng sẽ gặp khó khăn ở điểm nào…

Nói khác đi, hành động ý chí được xác định dựa trên sự mong đợi của con người, những điều kiện thực hiện cũng như những tác động khác. Khi con người ý thức được mục đích và điều kiện thực hiện thì hành động ý chí mới trở nên mạnh mẽ vì nó sẽ thôi thúc con người đạt được mục đích. Nếu mất đi đặc điểm này thì hành động ý chí sẽ không thể tồn tại và không thể gọi đó là hành động ý chí.

2.2.2. Hành động ý chí xuất phát từ tâm lý của chủ thể.

Nếu những tác động từ thế giới xung quanh không gây một tác động nhất định với chủ thể thì không thể xuất hiện hành động ý chí. Những kích thích bên ngoài dù cho có tác động vào chủ thể nhưng chính chủ thể không cảm nhận hay không cảm thấy phải được thôi thúc hành động thì cũng không thể xuất hiện hành động ý chí.

Nói khác đi, hành động ý chí xuất hiện dựa trên sự động cơ hóa những tác động hay động cơ hóa hành động. Chỉ khi chủ thể nhận thức được rằng mình phải hành động, mình phải thực hiện vì đó là một hành động cần thiết và ý nghĩa thì hành động ý chí mới có thể xuất hiện. Hành động ý chí cũng không thể tồn tại một cách chơi vơi mà nó luôn luôn gắn chặt với những hoạt động.

Những hoạt động nhất định là cơ sở để đạt được mục đích đã được xác định. Những hành động ý chí xuất phát ngay trong đời sống tâm lý của con người cũng phải tồn tại một cách cụ thể trong một hoạt động cụ thể hay những công việc cụ thể hay khi thực hiện những nhiệm vụ cụ thể. Chính vì vậy, những hành động ý chí sẽ hỗ trợ giúp con người thực hiện hoạt động một cách hiệu quả hơn là vậy.

Trong hành động ý chí, con người luôn có quá trình lựa chọn phương tiện và biện pháp hành động sao cho thực hiện được mục đích và đạt được một kết quả như mong muốn. Nói khác hơn, để thực hiện được hiệu quả của hành động, hành động ý chí đòi hỏi phải có sự cân nhắc thấu đáo về cách thức thực hiện, điều kiện – phương tiện thực hiện với sự tham gia rất cao độ của nhận thức – tư duy. Đây cũng chính là đặc điểm để thấy rằng hành động ý chí của con người rất độc đáo và chỉ có ở người là thế.

Trong hành động ý chí còn luôn có sự tham gia của nhận thức ở mức độ cao mà nó thể hiện ở sự theo dõi, kiểm tra, giám sát, điều khiển và điều chỉnh. Đấy chính là sự tham gia đích thực của ý chí. Với sự nỗ lực của ý chí, hành động ý chí sẽ hướng đến việc khắc phục những khó khăn, hoặc nỗ lực nhiều hơn nữa. Tuy nhiên, cũng có thể hành động ý chí sẽ được chính sự điều khiển của ý thức để chuyển sang một quyết định mới liên quan đến hành động như: tạm dừng hành động, chuyển hành động, không hành động…

2.3. Phân loại hành động ý chí.

Có thể phân loại hành động ý chí theo các loại sau đây:

– Hành động ý chí đơn giản là những hành động có mục đích rõ ràng nhưng sự lựa chọn phương tiện, biện pháp thực hiện cũng như sự nỗ lực khó khăn không thể đầy đủ.

– Hành động ý chí cấp bách là những hành động xảy ra trong một thời gian rất ngắn ngủi, đòi hỏi phải có sự quyết định và sự thực hiện quyết định nhanh chóng. Trong hành động này, mục đích, phương tiện cũng như sự nỗ lực của bản thân hầu như hòa quyện cùng nhau.

– Hành động ý chí phức tạp là loại hành động điển hình, mục đích, phương tiện, sự nỗ lực được thực hiện một cách rõ ràng.

2.4. Các giai đoạn của hành động ý chí.

Một hành động ý chí bao gồm các giai đoạn khác nhau từ khác chuẩn bị đến lúc thực thi. Phân tích các giai đoạn cơ bản của hành động ý chí cho thấy:

2.4.1. Giai đoạn chuẩn bị.

Đây là giai đoạn hành động trí tuệ, giai đoạn suy nghĩ. Giai đoạn này bao gồm: Đặt ra và ý thức rõ ràng về mục đích hành động; Lập kế hoạch và tìm ra phương pháp thực hiện; Quyết định hành động.

Phân tích sâu về giai đoạn chuẩn bị cho thấy nhu cầu chính là yếu tố cơ bản thúc đầy cho hành động ý chí được chuẩn bị. Nhu cầu thực hiện hành động ý chí có thể phân tích sau. Nhu cầu là yếu tố kích thích, gây ra mọi hành động. Nhu cầu gồm nhiều mức độ khác nhau:

– Mức độ thấp – ý hướng; ở mức độ này mới chỉ phản ánh trong ý thức, nghĩa là còn mù mờ, chưa rõ ràng. Nhu cầu ở mức ý hướng là nhu cầu còn chưa rõ ràng, chưa phản ánh một cách đầy đủ.

– Mức độ cao hơn ý muốn – so với ý hướng thì nhu cầu biểu hiện rõ ràng hơn, xác định được đối tượng của nhu cầu, nhưng chưa xác định được phương pháp thực hiện mục đích.

– Mức độ ý định là nhu cầu đã được ý thức một cách đầy đủ, con người đã xác định được mục đích của hành động. Chẳng hạn, khi ta nói ý định làm việc gì đó nghĩa là người ta sẵn sàng hành động. Khi giai đoạn chuẩn bị được thực thi thì một trong những yếu tố cần được phân tích sâu đó chính là quyết định hành động. Trong khi chủ thể chuẩn bị thì chính chủ thể đã trải qua việc ý thức rõ ràng về mục đích cũng như lập kế hoạch thực hiện. Quyết định được thực hiện là bước cuối trong khâu chuẩn bị hay giai đoạn chuẩn bị.

2.4.2. Giai đoạn quyết định thực hiện hoạt động.

Kết quả của những đấu tranh trong chính bản thân là hành động đưa đến những quyết định. Giai đoạn quyết định thực hiện hoạt động dựa trên những suy nghĩ và cân nhắc của cá nhân. Quyết định là việc kết thúc giai đoạn chuẩn bị cho hành vi ý chí. Quyết định xuất hiện cũng chỉ dừng lại ở mục đích và những phương pháp, phương tiện tiến hành hành vi ý chí. Người ta có thể phân biệt các loại quyết định như sau:

– Quyết định thông thường là quyết định hầu như không tách rời khỏi các ý muốn cụ thể, thực hiện tiêu biểu qua các hành vi ý chí đơn giản, dễ dàng xảy ra, không có sự dao động gì và thường không có sự đấu tranh giữa các động cơ hoặc sự đấu tranh ấy bị hạn chế tối đa. Quyết định thông thường là quyết định được vận dụng theo truyền thống đã hình thành mà không cần có sự nỗ lực đặc biệt nào của ý chí.

– Quyết định không có đủ cơ sở là quyết định được đưa ra trong những tình huống khó khăn mà chủ thể chưa có sự chuẩn bị để vượt qua. Thông thường có những quyết định như vậy xảy ra ở những người thiếu kiên quyết, kém ý chí, quy phục hoàn cảnh và không có lý tưởng sống rõ ràng.

– Quyết định có ý thức là quyết định tiêu biểu đối với những hành vi ý chí được thực hiện một cách độc lập sau khi đã phân tích kỹ các tình huống. Những quyết định loại này thường gắn liền với sự nhận thức đầy đủ bản chất, tầm quan trọng và sự cần thiết của hành động cần tiến hành.

– Nỗ lực ý chí. Trong giai đoạn này vẫn có sự tham gia đặc biệt của sự nỗ lực ý chí. Nỗ lực ý chí thể hiện ở sự chú ý tập trung vào hoạt động cần thiết, hoặc ở sự kích thích chủ thể hoạt động, mặc dù có những khó khăn trở ngại nảy sinh trên con đường đạt tới mục đích. Sự nỗ lực ý chí thường khác nhau tùy thuộc vào tính chất và đặc điểm của những khó khăn phải nỗ lực để vượt qua.

Có thể phân thành các nhóm khó khăn sau đây: Những khó khăn khách quan do những đặc điểm tiêu biểu của bản thân các đối tượng khác nhau quy định; Những khó khăn chủ quan do những đặc điểm riêng của bản thân chủ thể, do những mối quan hệ đã hình thành giữa chủ thể với hiện thực xung quanh quy định.

2.4.3. Giai đoạn thực hiện.

Đây là giai đoạn kế tiếp của hành động ý chí sau khi đã quyết định. Giai đoạn này đòi hỏi sự nỗ lực lớn lao, nhưng nỗ lực chưa đủ mà phải có ý chí. Quá trình thực hiện quyết định có thể có hai hình thức hành động bên ngoài – hành động bên trong, có thể gọi đó là hành động ý chí bên ngoài và hành động ý chí bên trong.

Nếu con người ta đi chệch khỏi con đường đã định tức lệch mục đích thì đó là hành động thiếu ý chí. Việc thực hiện được tiến hành bằng các thao tác hoạt động nhất định nhằm đạt tới mục đích với những phương thức nhất định. Thiếu giai đoạn này thì không thể có hành vi ý chí nữa. Chính giai đoạn thực hiện làm cho hành vi ý chí mới thực sự hiện hữu để đạt được mục đích của hành động.

2.4.4. Giai đoạn đánh giá.

Sau khi các hành vi ý chí được thực hiện, con người bao giờ cũng đánh giá các kết quả đã đạt được. Việc đánh giá này rất cần thiết để rút kinh nghiệm cho những hành vi sau đó. Việc đánh giá hành vi ý chí có một ý nghĩa thực tiễn rất lớn trong hoạt động của con người, nó trở thành sự kích thích và động cơ đối với hoạt động tiếp theo. Sự đánh giá xấu thường là động cơ dẫn đến việc đình chỉ hoặc sửa chữa những hành động hiện tại.

Sự đánh giá tốt sẽ kích thích việc tiếp tục tăng cường và cải tiến hành động đang thực hiện. Đánh giá kết quả hành động là đối chiếu kết quả đạt được với mục đích đã định. Sự đánh giá có thể xảy ra hai trạng thái: Đánh giá xấu thường kèm theo những rung cảm xấu hổ, hối hận, chưa thỏa mãn; Đánh giá tốt xảy với những rung cảm thỏa mãn, hài lòng, sung sướng.

Sự đánh giá hành động có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong hoạt động của con người. Nó có thể trở thành động cơ, kích thích đối với hoạt động tiếp theo: Đánh giá xấu dẫn đến việc đình chỉ hoặc sửa chữa hành động hiện tại; Đánh giá tốt sẽ kích thích việc tiếp tục, tăng cường hành động đang thực hiện.

2.5. Rèn luyện ý chí.

Ý chí có thể được rèn luyện bằng nhiều phương pháp khác nhau chủ yếu dựa trên mức độ và tính chất của sự quyết tâm của con người.

– Cố gắng xây dựng những thói quen tốt, luôn chống lại những đam mê vô thức. – Luôn ý thức chính mình, chống lại những cử chỉ máy móc.

– Luôn cố gắng làm chủ những xung động, cố gắng cân bằng cuộc sống, mỗi ngày làm việc gì đó chứng tỏ mình mạnh hơn sự thúc đẩy của bản năng.

– Mạnh dạn thay đổi bản thân để luôn kiên trì, quyết đoán theo định hướng của các phẩm chất ý chí.

– Tập thái độ quyết chí và vượt qua những thách thức và khó khăn ban đầu trong học tập, làm việc.

3. Hành động tự động hóa.

Trong khi phân tích về ý chí, sẽ là thiếu sót nếu lúc nào cũng đặt con người ở trạng thái ý chí. Ở con người còn có những hành động tự động hóa để làm phong phú đời sống và hoạt động của mình.

3.1. Định nghĩa.

Hành động tự động hóa là hành động có ý thức, có ý chí nhưng do được lặp đi lặp lại hay do tập luyện mà về sau trở thành những hành động tự động, nghĩa là không cần có sự kiểm soát trực tiếp của ý thức mà vẫn được thực hiện có kết quả. Ví dụ: Hành động đánh răng trước khi đi ngủ, hành động kiểm tra lịch làm việc mỗi buổi sáng…

Hành động tự động hóa khá đa dạng. Có hai loại hành động tự động hóa: kỹ xảo và thói quen và cần phân biệt hai dạng hành động tự động hóa này dưới góc độ Tâm lý học.

Bảng 2: Phân biệt Kỹ Xảo và Thói Quen
Kỹ Xảo Thói Quen
– Mang tính chất kỹ thuật. – Mang tính chất nhu cầu và nếp sống.
– Được đánh giá về mặt thao tác. – Được đánh giá về mặt đạo đức.
– Ít gắn với tình huống. – Luôn gắn với tình huống cụ thể.
– Có thể ít bền vững nếu không thường xuyên luyện tập, củng cố. – Bền vững, ăn sâu vào nếp sống.
– Con đường hình thành chủ yếu của kỹ xảo là luyện tập có mục đích và có hệ thống. – Hình thành bằng nhiều con đường như rèn luyện, bắt chước.

3.2. Những quy luật hình thành kỹ xảo.

Sự hình thành kỹ xảo không chỉ dẫn đến sự củng cố mà còn dẫn đến sự hoàn thiện hành động bằng cách lĩnh hội các thủ thuật hành động ngày có hiệu quả hơn. Đây cũng là mấu chốt để nâng cao hiệu quả làm việc. Quá trình luyện tập để hình thành kỹ xảo diễn ra theo các quy luật.

3.2.1. Quy luật về sự tiến bộ không đồng đều về kỹ xảo.

Trong quá trình hình thành kỹ xảo, kết quả luyện tập không đồng đều lúc tiến bộ nhanh, lúc tiến bộ chậm. Kết quả luyện tập kỹ xảo không chỉ phụ thuộc vào số lần củng cố mà còn phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác.

Có loại kỹ xảo khi mới luyện tập thì tiến bộ nhanh, sau đó chậm dần. Có những kỹ xảo khi mới bắt đầu luyện tập thì sự tiến bộ chậm, nhưng đến một giai đoạn nhất định nó lại tăng nhanh. Có những trường hợp khi bắt đầu luyện tập thì sự tiến bộ tạm thời lùi lại, sau đó tăng dần.

3.2.2. Quy luật đỉnh của phương pháp luyện tập.

Mỗi phương pháp luyện tập kỹ xảo chỉ đem một kết quả cao nhất đối với nó và không thể nâng kết quả lên cao hơn nữa. Mức kết quả cao nhất mà mỗi phương pháp luyện tập có thể đem lại được gọi là “đỉnh” của phương pháp đó. Muốn đạt được kết quả cao hơn nữa trong luyện tập cần biết hay đổi không ngừng phương pháp luyện tập, sử dụng phương pháp có đỉnh cao hơn.

3.2.3. Quy luật tác động qua lại giữa kỹ xảo cũ và kỷ xảo mới.

Trong quá trình hình thành kỹ xảo mới, những kỹ xảo cũ đã có người luyện tập có ảnh hưởng nhất định đến việc hình thành kỹ xảo mới. Sự ảnh hưởng này có thể tốt hay xấu. Nếu ảnh hưởng tốt thì làm cho quá trình thành kỹ xảo mới nhanh hơn, dễ dàng hơn, bền vững hơn, người ta gọi đó là sự di chuyển kỹ xảo. Có những trường hợp kỹ xảo cũ ảnh hưởng xấu đến sự hình thành kỹ xảo mới, gây cản trở, khó khăn cho sự hình thành kỹ xảo đó sẽ là sự giao thoa kỹ xảo,…

3.2.4. Quy luật dập tắt kỹ xảo.

Một kỹ xảo đã được hình thành, nhưng nếu không được sử dụng thường xuyên thì sẽ bị suy yếu và có thể mất hẳn, đó là sự dập tắt kỹ xảo. Trong quá trình hoạt động cần có sự ôn luyện thường xuyên để củng cố và không làm mất kỹ xảo đã có. Khi nhắc đến việc hình thành thói quen thì một cơ chế tâm lý cũng cần đề cập ở đây đó là sự lặp lại tự động hóa tự nhiên hoặc sự tập luyện dày công, cố gắng và nỗ lực.

Việc hình thành thói quen thực hiện bằng con đường khác nhau. Một trong những con đường đó là sự lặp đi lặp lại một cách đơn giản các cử động và hành động không chủ định được nảy sinh trong các nảy sinh tâm lý nhất định của con người.

Chẳng hạn, có những học sinh hay “nói leo” trong lớp, hay có em ngậm bút trong mồm khi suy ngẫm điều gì đó – hoặc có người hay dùng những ngón tay “gõ trống” trên mặt bàn – có người hay vo tròn giấy hoặc di chuyển đồ vật từ chữ nọ sang chữ kia khi đang sốt ruột; hoặc có người có thói quen khi nói chuyện hay vung tay, chi trỏ vào người khác…

Những thói quen này do lặp đi lặp lại nhiều lần những cử chỉ, hành động không chủ định. Có những thói quen bắt chước trong quá trình sống và dần dần trở thành sự ổn định. Nhưng có một số thói quen được hình thành nhờ vào sự tập luyện một cách đích thực và nỗ lực:

– Do sự giáo dục của người khác có chủ đích. Những thói quen này tốt – có lợi cho hoạt động học tập, rèn luyện của học sinh. Muốn giáo dục, hình thành thói quen tốt bản thân mỗi học sinh phải đạt mục đích khi hình thành thói quen. Đó là hình thành thói quen có cơ sở khoa học, có định hướng, có mục đích.

– Do sự tự giáo dục của bản thân. Có những hành vi văn minh, giao tiếp cổ văn hóa với mọi người, với thầy cô… ban đầu được giáo dục bởi người khác. Tuy nhiên, đến một thời điểm, tự cá nhân nhận thức và tự giáo dục chính mình theo những chuẩn mực được nhận thức nên vai trò của yếu tố tự giáo dục nổi lên và thể hiện một cách rất đậm nét.

Tuy nhiên, dẫu chịu sự tác động bởi yếu tố nào đi nữa thì muốn làm được điều đó cần chú ý đến các điều kiện cơ bản sau: Phải làm cho học sinh tin tưởng vào sự cần thiết phải có những thói quen ấy; Tổ chức những điều kiện khách quan thúc đẩy sự hình thành thói quen; Phải có sự kiểm soát của học sinh đối với việc thực hiện nghiêm chỉnh các hành động cần phải chuyển thành thói quen; Đấu tranh tích cực, kiên quyết gạt bỏ những thói quen xấu; Củng cố những thói quen tốt đang được hình thành bằng những cảm xúc dương tính của học sinh qua sự khích lệ, khuyến khích… của nhà giáo.

3.3. Giá trị của những thói quen.

Những thói quen – tập quán có giá trị nhất định trong hoạt động và đời sống con người. Thói quen có thể có lợi hoặc có hại cho hoạt động cụ thể của con người.

3.3.1. Những lợi ích của thói quen.

– Thói quen – tập quán làm không gian tâm lý của con người thêm lan rộng, giúp trí tuệ có điều kiện hướng vào những điều có giá trị cao hơn.

– Thói quen – tập quán huấn luyện cho con người những tình cảm tốt: kiên nhẫn, trầm tĩnh,…

– Thói quen – tập quán giúp con người mở rộng phạm vi ý thức và giảm bớt cường độ chú ý, tăng cường sức mạnh tri thức.

3.3.2. Những điều không có lợi của thói quen.

– Con người dễ trở thành máy móc, rập khuôn trong hoạt động thực tiễn.

– Trong đời sống tình cảm, thói quen làm cho con người dễ thụ động trong việc chịu đựng kham khổ, thậm chí trở nên sắt đá, làm tình cảm bớt phong phú, mất đi tính chất “nghệ sĩ” trong hoạt động và trong đời sống tình cảm nói chung.

– Trong đời sống trí tuệ, dễ có những thành kiến trong tư tưởng, trong phương pháp tư duy là mất đi tính sáng tạo dẫn đến những lối mòn trong sự tiếp thu tư tưởng, trong việc tìm tòi chân lý.

Tác giả: Huỳnh Văn Sơn


Bạn đang xem bài viết:
Ý chí con người trong Tâm Lý Học
Link https://vnlibs.com/tam-ly-hoc/y-chi-con-nguoi-trong-tam-ly-hoc.html

Mọi người cũng hỏi: