Nhân cách là phạm trù nền tảng của Tâm lý học đồng thời là đối tượng của các khoa học xã hội và nhân văn.
Sự phát triển tâm lý người không chỉ được thể hiện ở các quá trình nhận thức, cảm xúc, ý chí mà tựu trung là sự phát triển của một tổ hợp những thuộc tính tâm lý ổn định tạo nên bộ mặt riêng của từng con người, quy định những phương thức hành vi và kết quả hoạt động của người ấy.
Việc làm sáng tỏ bản chất nhân cách, cấu trúc nhân cách, những yếu tố hình thành và phát triển nhân cách không chỉ để nhận diện, giải thích thế giới nội tâm phong phú, độc đáo của con người; mà còn có ý nghĩa quan trọng trong ứng xử, trong việc tổ chức hoạt động giáo dục cũng như những hoạt động khác nhau.
1. Khái niệm chung về nhân cách.
Thuật ngữ nhân cách theo nghĩa thông thường dùng để chỉ phẩm chất, đạo đức của một người, cũng có khi được dùng với ý nghĩa chỉ giá trị, cốt cách làm người của họ. Nhân cách thường được hiểu là đức tính phẩm chất tốt, cao đẹp của con người. Trong khoa học, khái niệm nhân cách là một phạm trù đa diện với ý nghĩa rộng và phức hợp.
1.1. Các khái niệm con người, cá nhân, cá tính, chủ thể.
– Con người. Con người là khái niệm chung chỉ một giống loài động vật thuộc bậc thang cao nhất của sự tiến hóa vật chất có lao động, có ngôn ngữ và sống thành xã hội. Là thực thể tự nhiên, con người mang những đặc điểm sinh học và chịu sự chi phối của các quy luật sinh học. Là một thực thể xã hội, con người mang dấu ấn của nền văn hóa – xã hội và chịu sự chi phối của các quy luật xã hội. Hai mặt tự nhiên và xã hội trong con người hòa quyện và tương tác với nhau tạo nên sự khác biệt so với các giống loài động vật khác. Vì thế, cũng có thể định nghĩa: con người là một thực thể sinh vật – xã hội – văn hóa.
– Cá nhân. Thuật ngữ cá nhân dùng để chỉ một con người cụ thể, hay một cá thể người – đơn vị người nhỏ nhất. Cá nhân còn mang ý nghĩa là một thành viên của xã hội, cộng đồng; đồng thời cũng dùng để phân biệt nó với các cá nhân khác và với nhóm người mà nó là thành viên. Là một cá thể người, mỗi cá nhân có những đặc điểm sinh học riêng, đặc điểm tâm lý riêng và vai trò xã hội nhất định.
– Cá tính. Thuật ngữ cá tính dùng để chỉ những đặc điểm riêng biệt, không lặp lại về mặt tâm lý và sinh lý của mỗi cá nhân, tạo nên sự khác biệt và độc đáo ở họ so với những cá nhân khác.
– Chủ thể. Thuật ngữ này dùng để chỉ một cá nhân đang thực hiện các hoạt động có mục đích, có ý thức nhằm nhận thức và cải tạo thế giới. Khái niệm chủ thể để nhấn mạnh vai trò làm chủ trong mối quan hệ với khách thể, tạo nên sự biến đổi khách thể và biến đổi chính bản thân.
1.2. Định nghĩa nhân cách.
Dựa trên quan điểm duy vật của về bản chất con người của K.Marx, các nhà tâm lý duy vật biện chứng cho rằng nhân cách có bản chất xã hội – lịch sử. Khái niệm nhân cách vừa là một phạm trù tâm lý vừa là một phạm trù xã hội, nội dung của nhân cách là nội dung của hiện thực xã hội cụ thể chuyển thành những đặc điểm nhân cách của mỗi con người.
Nhân cách chỉ xuất hiện ở con người từ một giai đoạn phát triển nhất định. “Nhân cách là sản phẩm muộn của sự phát triển lịch sử xã hội và cá thể con người” – A. N. Leontiev. Trẻ sơ sinh là một con người một cá nhân, có cá tính nhưng chưa là một nhân cách.
Để trở nên nhân cách, cá nhân phải sống, hoạt động, giao tiếp trong xã hội, đạt tới sự trưởng thành xã hội nhất định và trở thành chủ thể có ý thức của hoạt động. Có thể nêu lên một số định nghĩa nhân cách sau đây:
Với quan niệm nhân cách bao gồm những phẩm chất tâm lý quy định hành vi xã hội của con người, E. V. Sorokhova cho rằng: “Nhân cách là con người với tư cách là kẻ mang toàn bộ những thuộc tính và phẩm chất tâm lý, quy định hình thức hoạt động và hành vi có ý nghĩa xã hội”.
Khẳng định nhân cách là chủ thể có ý thức trong việc thực thi các vai trò xã hội, A. G. Covaliov định nghĩa: “Nhân cách là một cá nhân có ý thức, chiếm một vị trí nhất định trong xã hội và đang thực hiện một vai trò xã hội nhất định”.
Tiếp cận nhân cách dưới góc độ giá trị xã hội, phẩm giá làm người của mỗi cá nhân, tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: “Nhân cách là hệ thống các thái độ của mỗi người thể hiện ở mức độ phù hợp giữa thang giá trị và thước đo giá trị của người ấy với thang giá trị và thước đo giá trị của cộng đồng và xã hội, độ phù hợp càng cao, nhân cách càng cao”.
Nhấn mạnh tính độc đáo và tính giá trị của nhân cách, tác giả Lê Đức Phúc cho rằng: “Nhân cách là cấu tạo tâm lý phức hợp, bao gồm những thuộc tính tâm lý cá nhân, được hình thành, phát triển trong cuộc sống và hoạt động, tạo nên nhân diện và quy định giá trị xã hội của mỗi người”.
Có thể tóm tắt những điểm chung khi hiểu về khái niệm nhân cách như sau: Nhân cách là một chỉnh thể của nhiều thuộc tính, đặc điểm bền vững của con người; Những đặc điểm thuộc tính ấy mang tính độc đáo riêng ở mỗi cá nhân, Những thuộc tính nhân cách thể hiện trong hành vi xã hội, mang giá trị xã hội.
Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý cá nhân thể hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người.
1.3. Đặc điểm nhân cách.
Có thể đề cập đến các đặc điểm sau đây của nhân cách:
1.3.1. Tính ổn định của nhân cách.
Nhân cách là những thuộc tính tâm lý hình thành trong đời sống qua sự lặp lại và củng cố những hành vi và thái độ, tạo thành những cấu trúc tâm lý bền vững đặc trưng cho cá nhân. Những nét nhân cách nói riêng và cấu trúc nhân cách nói chung của mỗi cá nhân sẽ biểu hiện thường xuyên trong nhiều tình huống, nhiều mối quan hệ và chi phối các hoạt động, các hành vi ứng xử của họ một cách nhất quán trong một thời gian dài.
Ví dụ: Một người có tính trung thực sẽ thể hiện nét nhân cách này một cách thường xuyên trong nhiều công việc, nhiều mối quan hệ và nhiều tình huống. Vì thế, những nét nhân cách và cấu trúc nhân cách khó hình thành, khó thay đổi. Tuy nhiên, nhân cách không phải là bất biến mà có tính linh hoạt (khả biến).
Từng thuộc tính có thể biến đổi, nhưng về mặt tổng thể thì chúng vẫn tạo thành một cấu trúc trọn vẹn và tương đối ổn định. Những nét nhân cách có thể thay đổi theo thời gian, dưới tác động của giáo dục của hoàn cảnh sống và sự rèn luyện của mỗi cá nhân.
Sự biến đổi này có thể theo các chiều hướng: một là phong phú và hoàn thiện, hai là suy thoái, lệch chuẩn và ba là diễn ra sự “phân ly” nhân cách (những biểu hiện bệnh lý về nhân cách mà chứng đa nhân cách là một dạng phân ly nhân cách điển hình).
Tính ổn định của nhân cách cho phép con người có thể đánh giá, dự đoán những biểu hiện của một nhân cách nào đó trước những tình huống của cuộc sống và những tác động giáo dục cụ thể. Tính linh hoạt của nhân cách cho phép chúng ta có thể giáo dục để hoàn thiện nhân cách cũng như uốn nắn làm thay đổi những nét nhân cách lệch chuẩn.
1.3.2. Tính thống nhất của nhân cách.
Nhân cách là một chỉnh thể thống nhất của những thuộc tính, những đặc điểm tâm lý khác nhau của cá nhân. Sự liên kết những thành phần của nhân cách như một tổng thể hữu cơ và chặt chẽ chúng luôn tương tác và ảnh hưởng qua lại với nhau.
Đơn cử như một người có tính quyết đoán kết hợp với lòng nhân ái sẽ hành động khác với một người có tính quyết đoán nhưng độc ác. Những thuộc tính trong một nhân cách cũng chi phối, tạo tiền đề và điều kiện cho sự phát triển lẫn nhau. Chẳng hạn, một người giáo viên có những nét tính cách kiên trì, thương yêu học sinh có thể tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển năng lực hiếu học sinh, năng lực khéo léo đối xử sư phạm.
Nhân cách còn là sự thống nhất hài hòa của các thuộc tính ở các cấp độ “Nội cá nhân”, “Liên cá nhân” và “Siêu cá nhân”. “Nội cá nhân” là những thuộc tính, đặc điểm ổn định được hình thành ở mỗi cá nhân, bao gồm những nết, những tính, những thói, tật… riêng của họ. Những nét thuộc về “Liên cá nhân” được hình thành và thể hiện trong các mối quan hệ và trong hoạt động đa dạng của họ như: tính quảng giao, tính hợp tác, tính giữ lời hứa…
Thuộc tính “Siêu cá nhân” là những nét nhân cách có tầm ảnh hưởng xã hội rộng hơn, tạo nên những chuyển biến trong xã hội và thể hiện cao nhất giá trị xã hội của họ, đây là những cống hiến, đóng góp của nhân cách cho xã hội. Ở cấp độ này, nhân cách có một không gian tồn tại rộng mở bên ngoài cá nhân đó là tồn tại trong những sản phẩm mà họ để lại và trong tâm trí những người khác kể cả các thế hệ mai sau.
Tính thống nhất của nhân cách cho phép chúng ta luôn nhìn nhận, đánh giá và giáo dục nhân cách một cách hoàn chỉnh, toàn diện, không biệt lập và tách rời. Cần dựa trên những nét nhân cách được hình thành trước đó làm cơ sở, tiền đề cho sự hình thành những nét nhân cách mới.
1.3.3. Tính tích cực của nhân cách.
Nhân cách vừa là sản phẩm của xã hội, vừa là chủ thể của hoạt động và giao tiếp trong xã hội. Mỗi nhân cách với toàn bộ những phẩm chất năng lực của mình đã tác động tới xã hội, tới người khác tạo ra những sản phẩm vật chất tinh thần đem đến lợi cho ích xã hội, cho người khác, cho bản thân, vì thế nhân cách có tính tích cực.
Tính tích cực của nhân cách được thể hiện đa dạng và phong phú trong thực tế với mục đích thích ứng, cải tạo thế giới xung quanh và cải tạo bản thân. Trong quá trình đó, mỗi nhân cách góp phần thúc đẩy xã hội phát triển đồng thời chứng tỏ được chức năng, vị thế xã hội và giá trị xã hội của mình. Giá trị xã hội, cốt cách làm người là tiêu chí rõ nhất của tính tích cực nhân cách.
Nguồn gốc của tính tích cực nhân cách chính là hệ thống nhu cầu của con người, nhu cầu kích thích con người hoạt động trên kiếm những đối tượng để thỏa mãn nó. Đối tượng và phương thức thỏa mãn nhu cầu luôn được con người sáng tạo và đổi mới không ngừng. Vì thế, tính tích cực nhân cách luôn gắn bó và phát triển trong quá trình thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người.
Với tính tích cực của nhân cách, trong tác động và giáo dục con người chúng ta cần chú trọng khơi dậy, nâng cao tính tích cực, chủ động ở họ. Mọi hoạt động đều phải dựa trên sự phát huy nhưng tiềm năng, những nhu cầu của chính con người.
1.3.4. Tính giao lưu của nhân cách.
Nhân cách có bản chất giao lưu, bởi nhân cách chỉ tồn tại, thể hiện và phát triển qua giao lưu với người khác với cộng đồng xã hội. Cùng với hoạt động, giao lưu là phương thức của sự tồn tại con người. Những em bé sinh ra nếu không được sống trong các quan hệ xã hội loài người thì không thể có nhân cách.
Nhu cầu giao lưu xuất hiện rất sớm ở trẻ (khoảng 2 tháng tuổi), nhu cầu này có được bởi sự giao lưu gắn bó mẹ – con trong thời kỳ sơ sinh. Nhu cầu về người khác đầu tiên này là nền tảng của sự phát triển các quan hệ của trẻ và là mầm mống cho việc phát triển tâm lý, nhân cách của trẻ.
Qua giao lưu mỗi cá nhân học hỏi những hành vi, ứng xử theo kiểu con người. Qua giao lưu, cá nhân lĩnh hội, thực thi và khẳng định các quy tắc chuẩn mực và các giá trị xã hội. Nhờ giao lưu, các phẩm chất nhân cách con người được bộc lộ và được mọi người xung quanh nhận xét đánh giá theo quan niệm và giá trị xã hội, từ đó cá nhân nhận biết bản thân, so sánh với xã hội và khẳng định giá trị của chính bản thân mình;
Đồng thời, nhờ giao lưu mà mỗi cá nhân đã tác động ảnh hưởng đến người khác tạo nên sự chuyển biến thay đổi ở họ. Trên cơ sở giao lưu, cá nhân tự điều khiển, điều chỉnh bản thân mình cho phù hợp với từng hoàn cảnh và các chuẩn mực xã hội.
Với đặc điểm này, cần đặt con người trong các mối quan hệ xã hội để tác động và giáo dục, cần xây dựng các mối quan hệ trong nhóm, tập thể lành mạnh và chú trọng mở rộng và tổ chức những hình thức giao lưu phù hợp cho từng đối tượng.
2. Một số lý thuyết về nhân cách.
2.1. Lý thuyết Kretschmer.
Lý thuyết types ngoại hình về nhân cách của Kretschmer (1888 – 1964), W. H. Sheldon (1898 – 1977). Thuyết này cho rằng đặc điểm nhân cách chịu sự quy định của đặc điểm hình thể con người. Theo W. Sheldon, đặc điểm hình thể tương quan với tính cách. Ông đo lường thể trạng của hàng ngàn sinh viên ở đại học thuộc bang Chicago và nghiên cứu kỹ lưỡng 200 sinh viên trong số đó. Ông tổng hợp và phân chia thành ba nhóm thể tạng và mô tả như sau:
– Người mập mạp, đẫy đà (Endomorphy): nội quan, hệ tiêu hóa lớn, hòa đồng, mạnh mẽ, thoải mái, mê ăn uống, khoan dung, thích được yêu thương và tán dương.
– Người cơ bắp, rắn chắc (Mesomorphy): nhiều cơ bắp, xương lớn. Đa số thích hoạt động, quyết đoán, ham mê quyền lực, mạo hiểm, hiếu chiến.
– Người mảnh dẻ, ốm yếu (Ectomorphy): thanh tú, yếu đuối, hay thu mình trong tiếp xúc xã hội, có tính nghệ sỹ, tự kiềm chế, có thiên hướng hoạt động trí tuệ, hay mơ mộng.
Đây là một dạng lý thuyết đề cao yếu tố sinh học quy định nhân cách. Tuy nhiên, chỉ là sự đối chiếu ngoại hình và hành vi để dự đoán tính cách nên mang tính phiến diện và thiếu căn cứ khoa học.
2.2. Lý thuyết S.Freud.
Lý thuyết phân tâm về nhân cách với đại diện là S.Freud (1856 – 1939). Lý thuyết phân tâm nhấn mạnh yếu tố sinh học quy định bản chất nhân cách, động lực phát triển cũng như các giai đoạn phát triển nhân cách.
Nhân cách được cấu tạo bởi ba thành phần: bản năng (id), cái tôi (ego), cái siêu tôi (superego). Bản năng gồm tất cả những ham muốn nguyên thủy bẩm sinh (nhu cần sinh lý, ham muốn tình dục), bản năng thuộc về phần vô thức điều khiển con người theo nguyên tắc khoái lạc.
Cái tôi là phần nhân cách theo nguyên tắc hiện thực và giữ chức năng kiểm soát bản năng, hướng bản năng thỏa mãn sao cho phù hợp và giảm thiểu những căng thẳng do sự cấm đoán của cái siêu tôi. Cái siêu tôi là những kinh nghiệm được tích lũy từ thời thơ ấu thông qua sự dạy dỗ của cha mẹ, sự lĩnh hội về giáo dục và các chuẩn mực xã hội.
Cái siêu tôi kiểm duyệt, ngăn chặn các bản năng và chỉ cho phép nó thỏa mãn đúng với đạo đức. Quá trình phát triển nhân cách là sự đấu tranh không ngưng nghỉ giữa bản năng, cái tôi và siêu tôi. Động cơ thực sự của nhân cách là những ham muốn bản năng nằm sâu trong vô thức, đó là bản chất thực của con người được che đậy dưới cái tôi hiện thực.
Sự phát triển nhân cách trải qua năm giai đoạn phát triển tâm tính dục, mỗi giai đoạn tập trung vào một cơ quan đặc biệt của cơ thể. Giai đoạn cảm xúc miệng (trong vòng 1 tuổi), trẻ khoái cảm khi bú mẹ, cắn và ăn uống. Giai đoạn hậu môn (2 – 3 tuổi), trung tâm khoái cảm ở hậu môn khi trẻ thải và kìm nén chất thải qua đường hậu môn.
Giai đoạn cảm xúc dương vật (4 – 6 tuổi), trẻ thích thú khám phá bộ phận sinh dục của mình. Giai đoạn tiềm ẩn (7 – 1 1 tuổi), xung lực tính dục tạm thời bị nén lại, trẻ hầu như không còn thích thú về tính dục mà hướng mối quan tâm vào việc tiếp thu các kỹ năng mới ở trường học. Giai đoạn sinh dục (từ 12 – 13 tuổi trở đi), trẻ dậy thì và bước vào thời kỳ cảm xúc ở cơ quan sinh dục.
Theo Phân tâm học, các giai đoạn nếu không được giải quyết ổn thỏa (hoặc có quá nhiều kích thích, hoặc quá nhiều hụt hẫng, thiếu thốn), sự phát triển dừng lại ở giai đoạn đó và sẽ phát triển những nét nhân cách đặc trưng cho giai đoạn ấy (sự “cắm chốt” hay “cố định hóa”).
Nếu “cắm chốt” ở giai đoạn miệng, trẻ sẽ hành xử quá nhiều ở miệng như: ăn quá nhiều, nghiện thuốc, nói lưu loát dựa dẫm và ưa châm chọc người khác. Nếu “cắm chốt” ở giai đoạn hậu môn, sau này sẽ trở nên ương ngạnh, bủn xỉn, đam mê hoặc quá ngăn nắp, sạch sẽ, tự kiềm chế quá mức.
2.3. Lý thuyết G.Alport và R.Cattel và H.Eysenck.
Lý thuyết đặc điểm nhân cách với các đại diện: G.Alport (1897 – 1967), R.Cattel (1905 – 1998), H.Eysenck (1916 – 1997). Nhân cách được cấu thành từ các khối gọi là những đặc điểm (nét) như: thông minh, dối
trá, nhạy cảm, liều lĩnh, thủ đoạn…
Nét nhân cách là những thói quen ứng xử nhất quán của cá nhân trong những tình huống giống nhau. Nét nhân cách quy định hành vi và thúc đẩy cá nhân trên kiếm những hướng mà nhờ đó có thể bộc lộ nó. Chẳng hạn, tính ham vui của một người khiến người ấy thường trên cách có mặt trong những dịp lễ hội, những cuộc họp mặt, bởi qua đó có khả năng bộc lộ tính thích giao du của mình.
Nét nhân cách tạo ra sự khác biệt về nội dung và cách bộc lộ nhân cách ở các cá nhân khác nhau. H.Eysenck phát triển mô hình lý thuyết đặc điểm nhân cách và áp dụng kỹ thuật thống kê về các nhân tố nhân cách, ông phân chia thành hai kiểu nhân cách là hướng nội và hướng ngoại. Kiểu nhân cách là tập hợp của rất nhiều những đặc điểm, thói quen và phản ứng cụ thể.
Lý thuyết đặc điểm chú trọng mô tả nhân cách, làm cơ sở cho sự nhận diện nhân cách căn cứ vào sự nhất quán của hành vi. Có thể đo đạc được nhân cách thông qua những đặc điểm nhân cách. Từ lý thuyết này đã xây dựng những trắc nghiệm đo lường nhân cách như: bản kiểm kê nhân cách của H. Eysenck, trắc nghiệm nhân cách của R. Cattel và gần đây nhất là lý thuyết và bản trắc nghiệm nhân cách dựa trên năm đặc điểm lớn của nhân cách của R. Mc Crae và P. Costa.
2.4. Lý thuyết C. Rogers và A. Maslow.
Lý thuyết nhân văn về nhân cách với các đại diện như C. Rogers (1908 – 1970), A. Maslow (1902 – 1987). Lý thuyết nhân văn đề cao và tin tưởng vào bản chất tốt đẹp, lành mạnh của con người. Nhân cách do bản thân con người quyết định trong quá trình hiện thực hóa những tiềm năng vốn có của chính họ.
Theo C. Rogers, con người có bản tính thiện như lòng tự trọng, giá trị bản thân, luôn có mục đích và đáng tin cậy. Con người có xu hướng nhận ra mình (nhận ra khả năng tốt nhất của bản thân), động lực của sự phát triển nhân cách chính là khuynh hướng hiện thực hóa bản thân. Phát huy hết tiềm năng của bản thân, con người có được sự tự do trong tâm hồn, có khả năng tự quyết định và lựa chọn hướng phát triển thích hợp, sẽ sáng tạo và xây dựng một nhân cách tốt, đem lại sự thương yêu và tán thưởng ở người khác.
Theo A. Maslow, con người được thúc đẩy bởi một hệ thống nhu cầu gần như không thay đổi. Hệ thống nhu cầu quy định sự phát triển nhân cách. Chẳng hạn, nếu không thỏa mãn nhu cầu sinh lý sống còn, con người cảm thấy bị thúc ép và lo lắng; khi nhu cầu tự trọng được thỏa mãn, con người cảm nhận được giá trị, nếu không được thỏa mãn nhu cầu này họ vướng vào mặc cảm của sự khiếm khuyết. Khi tất cả các nhu cầu sinh lý, an toàn tình cảm, tự trọng được thỏa mãn, con người phát triển nhu cầu tự thực hiện, lúc này con người hiện thực tiềm năng cao nhất của mình, đạt đến mức độ cao của nhân cách.
2.5. Lý thuyết A.Bandura.
Lý thuyết học tập xã hội về nhân cách của A.Bandura (1925). Đây là lý thuyết nhân cách với nền tảng là lý thuyết hành vi vì chú trọng môi trường bên ngoài quy định nên hành vi và nhân cách. Tuy nhiên, lý thuyết của A.Bandura nhấn mạnh ảnh hưởng của nhận thức của con người (suy nghĩ, cảm tưởng và kỳ vọng) lên hành vi và nhân cách.
Bandura giải thích rằng, nhân cách có được là do toàn bộ những kinh nghiệm của cá nhân được tích lũy hơn là do yếu tố sinh học. Nhân cách do cá nhân ôn luyện trong môi trường mà có, con người chắt lọc kinh nghiệm, nảy sinh hành vi mới bằng cách tổ chức lại hành vi thông qua học tập quan sát. Các thực nghiệm của ông cho thấy, trẻ em thường có khuynh hướng lặp lại hành vi mà nó quan sát được. Trẻ có thể “mô phỏng” hành vi nghĩa là lưu trữ những hành vi đã quan sát được và sẽ thể hiện nó trong tình huống gần giống.
Ví dụ: Thầy giáo viên chấm điểm cao cho học sinh có vẽ hình trong bài kiểm tra, lần sau học sinh sẽ vẽ hình trong bài làm của mình; thấy một người nhường ghế cho cụ già và được mọi người xung quanh tán dương, học sinh sẽ học theo hành vi đó. Trẻ cũng có thể “nhận dạng” hành vi (chấp nhận hành vi, đồng nhất và có khả năng thể hiện thành hình thức hành vi mới lạ). Cụ thể như: khi được dạy làm bánh, trẻ có thể tự thiết kế cái bánh độc đáo và sáng tạo dựa trên sự hợp nhất nhiều mô hình khác nhau.
Thuyết học hỏi xã hội cho rằng, con người chủ động lựa chọn môi trường cho mình, nó cũng giải thích vì sao con người khác nhau về nhân cách, hơn nữa trong cùng một môi trường thì con người cũng không giống nhau về cách thể hiện giá trị. Một liệu pháp sửa chữa hành vi được xây dựng từ học thuyết này là liệu pháp tự kiểm soát hành vi.
3. Cấu trúc tâm lý của nhân cách.
Nhân cách là một tổng thể thống nhất của nhiều thành phần, nhiều thuộc tính kết hợp chặt chẽ với nhau. Nói đến cấu trúc nhân cách là nói đến: các thành phần nào tạo nên nhân cách, các thành phần ấy được sắp xếp tổ chức ra sao, chúng có mối quan hệ với nhau như thế nào.
Cấu trúc nhân cách là sự sắp xếp các thuộc tính, các thành phần của nhân cách thành một chỉnh thể trọn vẹn tương đối ổn định trong mối liên hệ và quan hệ nhất định. Nhân cách là một phạm trù đa diện với nhiều quan điểm tiếp cận, vì thế có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Sau đây là một số kiểu cấu trúc nhân cách dưới góc nhìn Tâm lý học, các kiểu cấu trúc này được vận dụng nhiều trong nghiên cứu, trong giáo dục và đào tạo.
– Quan niệm coi nhân cách gồm ba lĩnh vực cơ bản: nhận thức (bao gồm cả tri thức và năng lực trí tuệ), rung cảm (xúc cảm, tình cảm và thái độ), ý chí (các phẩm chất ý chí, kỹ năng, kỹ xảo và thói quen). – Quan niệm coi nhân cách gồm bốn tiểu cấu trúc (theo K. K. Platonov): xu hướng (thế giới quan, lý tưởng, niềm tin, nhu cầu, hứng thú, tâm thế), kinh nghiệm (tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen), đặc điểm các quá trình phản ánh (các phẩm chất trí tuệ, phẩm chất ý chí và đặc điểm của xúc cảm, tình cảm), các thuộc tính sinh học (khí chất, giới tính, các đặc điểm bệnh lý).
– Quan niệm coi nhân cách gồm bốn thuộc tính tâm lý điển hình: xu hướng, tính cách, khí chất và năng lực.
– Những nghiên cứu về nhân cách gần đây của các tác giả Việt Nam đã đưa ra một cấu trúc nhân cách bao quát gồm bốn thành phần sau:
Xu hướng của nhân cách: hệ thống những thúc đẩy quy định tính lựa chọn của thái độ và tính tích cực của con người. Xu hướng bao gồm: hệ thống nhu cầu, hứng thú, lý tưởng, niềm tin. Các thành phần này quan hệ chặt chẽ, chi phối và tác động qua lại với nhau.
Những khả năng của nhân cách: gồm hệ thống các năng lực của cá nhân đảm bảo cho hoạt động đạt kết quả. Phong cách hành vi của nhân cách: gồm tính cách và khí chất. Những thuộc tính này quy định những đặc điểm trong hành vi và tác phong của mỗi người.
“Cái tôi” – hệ thống điều khiển của nhân cách: “cái tôi” là hình ảnh tổng thể hay biểu tượng về bản thân. “Cái tôi” được phát triển do khả năng tự ý thức của mỗi người. Nhờ “cái tôi”, cá nhân nhận thức được bản thân, so sánh với người khác, xác định được khoảng cách giữa mục tiêu, mong đợi và thực tế hiện có của bản thân.
Từ đó, “cái tôi”, thực hiện sự điều khiển và điều chỉnh nhân cách của mình như: tăng cường hay giảm bớt hoạt động, tự kiểm soát và sửa chữa hành vi, tự khích lệ và xoa dịu bản thân, dự kiến hoạch định cuộc sống của mình. Mức độ phát triển của “cái tôi” chi phối sức mạnh và mức độ phát triển của nhân cách. Với biểu tượng “cái tôi” khách quan và phù hợp, con người sẽ trở thành chủ nhân của sự phát triển nhân cách chính mình.
Theo cách nhìn truyền thống con người Việt Nam, cấu trúc nhân cách bao gồm hai mặt có mối liên hệ thống nhất: đức và tài hay phẩm chất và năng lực.
4. Những thuộc tính điển hình của nhân cách.
4.1. Xu hướng.
Trong cuộc sống, con người luôn lựa chọn những đối tượng có ý nghĩa với bản thân từ thế giới khách quan, sự lựa chọn và hướng tới các đối tượng này diễn ra trong một thời gian dài, ổn định và thúc đẩy con người hành động tích cực chiếm lĩnh đối tượng. Những thuộc tính thể hiện sự lựa chọn và tính tích cực thúc đẩy hoạt động như vậy được gọi là xu hướng của nhân cách. Xu hướng quy định phương hướng, mục tiêu của cuộc sống, đồng thời quy định sự phát triển toàn bộ nhân cách nói chung.
Xu hướng là hệ thống những thúc đẩy quy định tính lựa chọn của các thái độ và tính tích cực hoạt động của cá nhân. Xu hướng được biểu hiện ở các mặt chủ yếu: nhu cầu, hứng thú, lý tưởng, thế giới quan và niềm tin.
4.1.1. Nhu cầu.
Để tồn tại và phát triển, mỗi cơ thể sống cần phải có những điều kiện và phương tiện nhất định từ phía môi trường bên ngoài. Ví dụ: thức ăn, không khí tiện nghi vật chất, được an toàn, tự do, được yêu thương được học hành, được thưởng thức cái đẹp, được thành đạt… Những đòi hỏi này được gọi là nhu cầu. Nhu cầu là những đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển. Nhu cầu có những đặc điểm cơ bản:
– Nhu cầu có tính đối tượng. Nhu cầu bao giờ cũng hướng vào một đối tượng cụ thể, đối tượng ấy có thể là vật chất, tinh thần hay một hoạt động nào đó, chúng có khả năng làm thỏa mãn đòi hỏi cửa chủ thể. Chỉ khi nào nhu cầu gặp gỡ với đối tượng có khả năng thỏa mãn nó thì lúc đó nhu cầu trở thành động cơ của hoạt động. Vì thế, đối tượng của nhu cầu cũng được xác định rõ ràng cụ thể, càng kích thích, thúc đẩy hoạt động tích cực của con người vươn tới nó. Tính đối tượng của nhu cầu còn thể hiện ở việc, con người luôn chủ động tác động vào thế giới, sáng tạo ra những đối tượng mới nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của mình.
– Nội dung của nhu cầu do những điều kiện và phương thức thỏa mãn nó quy định. Nhu cầu phản ánh những điều kiện kinh tế xã hội cũng như điều kiện của mỗi cá nhân. Sản xuất phát triển, xã hội ngày càng văn minh đã làm nảy sinh những nhu cầu và cách thức thỏa mãn đa dạng, phong phú. Đánh giá và tác động vào nhu cầu con người cần phải hướng vào cả nội dung cũng như cách thức thỏa mãn nó như thế nào.
– Nhu cầu thường có tính chu kỳ. Khi nhu cầu được thỏa mãn, bản thân nhu cầu ấy sẽ bị suy yếu đi trong thời điểm đó, nhưng nó lại tiếp tục được lặp lại ở thời điểm khác theo một chu trình nhất định. Đặc biệt những nhu cầu về ăn, ở, mặc, học tập, giao tiếp thường xuyên tái diễn trong cuộc sống. Tuy nhiên, nhu cầu được tái hiện thường sẽ phong phú hoặc ở mức độ cao hơn.
– Nhu cầu con người khác về chất so với nhu cầu con vật, nhu cầu con người mang tính xã hội. Không chỉ khác con vật ở nội dung phong phú của nhu cầu, mà còn khác ở chỗ con người chủ động sáng tạo một thế giới đối tượng để thỏa mãn chúng. Ở con người, ngoài những nhu cầu vật chất còn có những nhu cầu tinh thần, hơn nữa ngay cả những nhu cầu tự nhiên cũng được biến đổi đi và được thỏa mãn có đạo đức, văn hóa và thẩm mỹ.
Nhu cầu con người rất đa dạng phong phú, người ta có thể phân chia các loại nhu cầu dựa trên các tiêu chí nhất định. Nếu dựa trên đối tượng thỏa mãn nhu cầu, có hai loại nhu cầu: nhu cầu vật chất: nhu cầu ăn, ở, mặc…, nhu cầu tinh thần: nhu cầu nhận thức, nhu cầu lao động, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu giao tiếp…
Dựa trên thứ tự xuất hiện của các nhu cầu, A.Maslow phân chia năm loại nhu cầu: nhu cầu sinh lý, sống còn (ôxy, nước, chất dinh dưỡng, sinh dục…), nhu cần an toàn (được bảo vệ, an ninh, không bị đe dọa..), nhu cầu phụ thuộc (được yêu thương, tình hữu nghị, được tin cậy), nhu cầu tự trọng (được tôn trọng, có địa vị, giành được lòng tin, uy tín, danh dự…), nhu cầu phát huy bản ngã (được thể hiện khả năng, đạt được thành tích, có giá trị, phát huy được năng lực, sáng tạo).
4.1.2. Hứng thú.
Trong cuộc sống, mỗi cá nhân hướng sự quan tâm với một tình cảm đặc biệt cho một số đối tượng hay hoạt động mà họ thấy thực sự cần thiết và hấp dẫn. Ví dụ: thể thao, âm nhạc, thời trang, công nghệ thông tin… Khi sự quan tâm này tương đối lâu dài, bền vững với đối tượng xác định được gọi là hứng thú.
Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân với những đối tượng nào đó vừa có ý nghĩa trong đời sống vừa mang lại sự khoái cảm cho cá nhân trong hoạt động. Hứng thú được biểu hiện ở khuynh hướng hoạt động của cá nhân với những đối tượng, biểu hiện ở sự tập trung chú ý và ghi nhớ cao, biểu hiện ở tình cảm say mê với đối tượng lựa chọn.
Mỗi người có những hứng thú khác nhau. Có thể phân loại hứng thú dựa trên nội dung hoạt động như: hứng thú vật chất, hứng thú nhận thức, hứng thú chính trị – xã hội, hứng thú nghệ thuật.
4.1.3. Vai trò của hứng thú.
– Hứng thú làm tăng hiệu quả của hoạt động nhận thức: Khi có hứng thú, con người tập trung trí tuệ và tình cảm của mình vào đối tượng khiến sự nhận thức về đối tượng nhạy bén và sâu sắc.
– Hứng thú làm tăng sức lực làm việc, vì tính ý nghĩa và hấp dẫn của đối tượng lôi cuốn cá nhân làm việc say sưa, bền bỉ, ít mệt mỏi.
– Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động và hành động sáng tạo. Hứng thú cho cá nhân sự thỏa mãn về tình cảm, kích thích nhu cầu hoạt động sáng tạo để khám phá chinh phục đối tượng.
– Hứng thú nâng cao bản ngã của cá nhân vì họ cảm nhận một cuộc sống có ý nghĩa và tươi sáng, hứng thú cho con người trải nghiệm các cảm xúc phấn khích và hăng hái. Hứng thú kích thích và nâng đỡ tâm hồn con người vượt lên những khó khăn và tăng nghị lực sống cho họ.
4.1.4. Lý tưởng.
Lý tưởng là mục tiêu cao đẹp, một hình ảnh mẫu mực tương đối hoàn chính có sức lôi cuốn con người vào hoạt động trong thột thời gian dài để vươn tới nó. Mỗi người trưởng thành đều có lý tưởng của mình như: trở thành một nhà khoa học, một kỹ sư tài năng, một nhà hoạt động xã hội, một nhà kinh doanh.
Lý tưởng là cái chưa có trong hiện thực, là cái mà cá nhân muốn có, muốn phấn đấu trở thành, lý tưởng thuộc về tương lai mà cá nhân vươn tới. Trong lý tưởng có sự hòa nhập của ba thành phần tâm lý: nhận thức sâu sắc, tình cảm mãnh liệt và ý chí quyết tâm.
4.1.3.1. Tính chất của lý tưởng.
– Tính hiện thực: lý tưởng là hình ảnh tưởng tượng, nhưng không là cái viển vông mà luôn xuất phát từ hiện thực. Hình ảnh lý tưởng có thể là sự mô phỏng theo hình mẫu thực tế, cũng có thể là sự tổng hợp từ rất nhiều những “chất liệu” hiện thực để xây dựng nên hình ảnh hoàn thiện, hoàn mỹ với cá nhân.
– Tính lãng mạn: lý tưởng là hình ảnh của tương lai, cái khiến con người thấy hấp dẫn và mong ước đạt tới, hình ảnh lý tưởng được con người ôm ấp, tôn thờ, mường tượng với màu sắc tươi thắm, rực rỡ, bay bổng.
– Tính xã hội – lịch sử: lý tưởng cá nhân có nguồn gốc từ xã hội, lý tưởng phản ánh những đặc điểm thời đại, giai cấp và điều kiện xã hội mà cá nhân đang sống. Mỗi giai đoạn lịch sử nhất định có những lý tưởng chung của một dân tộc một giai cấp, chúng đều được thể hiện trong lý tưởng riêng của các cá nhân.
Ví dụ: Lý tưởng làm giàu cho bản thân, cho xã hội là chung cho đại đa số thanh niên trong thời đại hiện nay.
4.1.3.2. Vai trò của lý tưởng.
– Lý tưởng là mặt biểu hiện tập trung của xu hướng nhân cách. Nó chi phối và quy định hệ thống nhu cầu, hứng thú, niềm tin của cá nhân.
– Lý tưởng là động lực thúc đẩy, điều khiển toàn bộ hoạt động của con người. Lý tưởng xác định mục tiêu, hướng đi, kế hoạch của cuộc đời. Lý tưởng khiến con người đam mê hoạt động, dành hết tâm sức vượt qua những khó khăn trở ngại để đạt được nó.
– Lý tưởng trực tiếp chi phối sự hình thành và phát triển các thuộc tính tâm lý cá nhân: tình cảm, ý chí, năng lực, tình cách… Để vươn tới lý tưởng cao đẹp, con người tự điều chỉnh những ham muốn không cần thiết, tự thay đổi bản thân mình và trau dồi phát triển những phẩm chất năng lực đáp ứng yêu cầu của công việc cũng như tự hoàn thiện nhân cách hướng tới những giá trị cao đẹp.
4.1.4. Thế giới quan và niềm tin.
Thế giới quan là hệ thống các quan điểm về tự nhiên, về xã hội và bản thân được hình thành ở mỗi người và xác định phương châm hành động của họ. Thế giới quan của cá nhân là sự kết hợp của nhiều thành phần như quan điểm chính trị, tri thức khoa học, chuẩn mực đạo đức, tôn giáo và thẩm mỹ, được hình thành trong cuộc sống dưới ảnh hưởng của giáo dục và sự tham gia tích cực vào các mối quan hệ xã hội.
Thế giới quan cho con người bức tranh tổng thể về thế giới, từ đó quyết định hành vi thái độ của con người. Thế giới quan khoa học soi sáng và thúc đầy hành động trên bộ, hợp quy luật của cá nhân góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Niềm tin là một phẩm chất của thế giới quan, là sự kết tính các quan điểm, tri thức, rung cảm, ý chí đã được con người trải nghiệm trong hoạt động sống của mình, trở thành chân lý bền vững trong họ.
4.2. Tính cách.
4.2.1. Định nghĩa.
Trước những tác động của hiện thực đã hình thành ở con người những phản ứng khác nhau, những phản ứng được củng cố thường xuyên trở thành thái độ và phương thức hành vi ổn định trong các mối quan hệ và công việc được gọi là tính cách. Chúng ta thường dừng các từ: tính tình, tính nết (trung thực, chăm chỉ, dũng cảm…), phẩm chất (trung hiếu, yêu nước, tự trọng…), lòng (chung thủy, yêu thiên nhiên, vị tha…), thói, tật (keo kiệt, ba hoa, lười biếng…) để chỉ tính cách của con người.
Tính cách là sự kết hợp độc đáo các đặc điểm tâm lý ổn định của con người, quy định phương thức hành vi đặc thù của người đó trong những điều kiện sống và hoàn cảnh nhất định, thể hiện thái độ của họ đối với thế giới xung quanh và bản thân.
4.2.2. Đặc điểm tính cách.
4.2.2.1. Tính ổn định và linh hoạt.
Tính cách được thể hiện ở thái độ và cách ứng xử giống nhau, nhất quán trong một thời gian dài trước những tình huống hoàn cảnh tương tự. Chẳng hạn, lòng nhân ái của một người là nét tính cách được thể hiện mọi lúc mọi nơi trở thành cách ứng xử ổn định của họ.
Khi đã hiểu về tính cách của một người, ta có thể dự đoán khá đúng về hành vi của họ trong tình huống cụ thể. Là những đặc điểm bền vững, khó thay đổi nhưng tính cách không phải là bất biến mà có tính linh hoạt, nghĩa là được phát triển hoàn thiện và cải tạo. Tính cách hình thành trong các hoạt động đa dạng của cá nhân, chịu sự chi phối của những điều kiện kinh tế xã hội và đặc biệt nhờ sự nỗ lực, trui rèn của bản thân mỗi người.
4.2.2.2. Tính độc đáo và tính điển hình.
Tính cách là đặc điểm riêng biệt của cá nhân, không có sự giống nhau hoàn toàn về tính cách của người này với người khác, “sống mỗi người một nết”. Sự khác biệt này biểu hiện ở những thái độ và hành vi độc đáo của mỗi người như là “kiểu sống”, “kiểu ứng xử” đặc trưng ở họ. Ví dụ: Người này có kiểu sống nhân ái và nhường nhịn, người kia có kiểu sống khinh khi và bất cần.
Mặt khác, trong tính cách có những nét chung giống nhau ở nhiều người hay một nhóm, phản ánh những điều kiện chung của thời đại hoàn cảnh, dân tộc, địa phương… của họ tạo nên tính điển hình của tính cách. Ví dụ: Những nét tính cách như: sáng tạo, nhạy bén, mạo hiểm, thực dụng, quý trọng thời gian… là điển hình của nhà kinh doanh. Tính cách là sự thống nhất hòa quyện của tính điển hình và tính cá biệt.
4.2.3. Cấu trúc của tính cách.
Tính cách là một tổ hợp của nhiều nét tính cách được kết hợp với nhau tạo nên cấu trúc hoàn chỉnh bao gồm hệ thống thái độ và hệ thống hành vi.
4.2.3.1. Hệ thống thái độ và nội dung của tính cách.
– Thái độ đối với xã hội: thái độ lựa chọn, đánh giá và cảm xúc với đất nước, các tổ chức xã hội, các phong tục tập quán, dư luận xã hội. Biểu hiện ở một số nét tính cách như: lòng yêu nước, trung thành với Tổ quốc, tinh thần đoàn kết, trách nhiệm làm giàu cho đất nước, vì nghĩa…
– Thái độ đối với tự nhiên: thể hiện nhận thức và cảm xúc với thiên nhiên. Biểu hiện ở một số nét tính cách: yêu thiên nhiên, bảo vệ thiên nhiên, tôn trọng và gìn giữ môi trường…
– Thái độ đối với người khác: thái độ trong các mối quan hệ với con người (ông bà, cha mẹ, anh em, bạn bè và những người xung quanh). Gồm một số nét tính cách: lòng kính yêu, lòng nhân ái, tính hợp tác, tính cởi mở, tính trung thực, tính công bằng, tính khoan dung.
– Thái độ đối với công việc: thái độ với công việc, nghề nghiệp và sản phẩm làm ra. Thể hiện ở một số nét tính cách như: yêu nghề, cần cù, tận tụy, kỷ luật, cẩn thận, sáng tạo, tiết kiệm…
– Thái độ đối với bản thân: những nét tính cách thể hiện sự đánh giá và rung cảm với bản thân như: tự tin, danh dự, tự trọng, tự phê bình, khiêm tốn, giản dị, cầu tiến…
– Các phẩm chất ý chí của tính cách: tính mục đích, tính kiên trì, tính tự kiềm chế, tính dũng cảm…
4.2.3.2. Hệ thống hành vi và hình thức của tính cách.
Là sự thể hiện ra bên ngoài của hệ thống thái độ. Hệ thống hành vi bao gồm cử chỉ, động tác, nét mặt, ánh mắt, nụ cười… rất đa dạng phong phú nhưng đều chịu sự chi phối bởi hệ thống thái độ. Chẳng hạn, bạn sẽ nhận biết một người có tính tự tin qua ngôn ngữ tự chủ, tác phong đĩnh đạc, cái nhìn thẳng thắn và tự nhiên.
Nội dung và hình thức của tính cách có mối quan hệ thống nhất. Thường có sự phù hợp, nhất quán giữa thái độ và hành vi, tuy nhiên trong thực tế có những khi giữa nội dung và hình thức không ăn khớp với nhau. Chẳng hạn, một người thực lòng muốn giúp đỡ người khác nhưng lại thể hiện cử chỉ vụng về, thậm chí trái ngược gây sự hiểu lầm ở người được giúp đỡ; hoặc một người có tính độc ác lại được ngụy trang bằng cử chỉ ân cần, lời nói ngọt ngào.
Hệ thống hành vi được hình thành và ổn định trong sự thống nhất với hệ thống thái độ, nhưng hành vi là hệ thống “động” có tính độc lập tương đối. Vì thế, khi xem xét tính cách, chúng ta cần phải căn cứ vào cả mặt thái độ và hành vi, đồng thời cần phân biệt rõ giữa bản chất và hiện tượng.
Tính cách là thành phần quan trọng, thể hiện bộ mặt đạo đức của nhân cách. Tính cách có ảnh hưởng lớn đến sụ phát triển của các thuộc tính khác của nhân cách (xu hướng, năng lực, khí chất). Người có tính cách tốt thường được coi là có nhân cách tốt. Tính cách là sức mạnh giúp con người vượt qua khó khăn đạt được mục tiêu của mình. Người có tính cách tốt còn ảnh hưởng, thuyết phục và lôi cuốn những người xung quanh bằng các hành động gương mẫu, tỏa sáng.
4.3. Khí chất.
4.3.1. Định nghĩa.
Các cá nhân có sự khác nhau rất rõ trong những về bề ngoài của hành vi. Người thì luôn nhanh nhẹn hoạt bát; người thì hay e dè, khó thích nghi; người thì luôn ôn hòa, ung dung; người thì hay xúc động mạnh, vội vàng, hấp tấp… Những biểu hiện này chi thuần túy là sắc thái diễn biến khác nhau của hoạt động tâm lý con người về mặt cường độ, tốc độ, nhịp độ mà thôi, chứ không nói lên bản chất con người ấy là lười biếng hay chăm chỉ, trung thực hay giả dối, dũng cảm hay hèn nhát, tài giỏi hay bình thường.
Những đặc điểm về hành vi như vậy trở nên ổn định, đặc trưng cho cá nhân được gọi là khí chất (tính khí). Khí chất là thuộc tính phức hợp của cá nhân, biểu hiện cường độ, tốc độ, nhịp độ của các hoạt động tâm lý, thể hiện sắc thái hành vi, cử chỉ, cách nói năng của cá nhân.
4.3.2. Cơ sở sinh lý của khí chất.
Người đầu tiên nghiên cứu, phân loại và giải thích về khí chất là Hyppocrates, danh y người Hy Lạp vào thế kỷ thứ V trước Công Nguyên. Theo ông, cơ thể con người có bốn chất dịch: máu, nước nhờn mật vàng và mật đen. Sự pha trộn của các chất này trong cơ thể mỗi người là khác nhau.
Tỷ lệ vượt trội cùng với tính chất của một trong bốn chất ấy đã quyết định kiều khí chất (tính khí) của con người: Nhiều máu (ở tim, có tính ấm, nóng): tính khí lạc quan (sanguine); Nhiều nước nhờn (ở não, có tính lạnh lẽo): tính khí lạnh lùng (phlegmatic); Nhiều mật vàng (ở gan, có tính khô khan): tính khí nóng nảy (choleric); Nhiều mật đen (ở dạ dày, có tính ẩm ướt): tính khí u sầu (melancholic).
Ngày nay, cách giải thích của Hyppocrates không còn phù hợp nữa dù tên gọi của các kiểu khí chất vẫn được giữ nguyên. Học thuyết thần kinh của I.P.Pavlov, nhà sinh lý học người Nga đã lý giải một cách khoa học về khí chất. Theo ông, cơ sở sinh lý của khí chất là kiểu hoạt động thần kinh cấp cao. Khi nghiên cứu về phản xạ có điều kiện, I.P.Pavlov đã xác định hoạt động thần kinh của người và động vật dựa trên hai quá trình thần kinh cơ bản là hưng phấn và ức chế.
Hai quá trình này có ba thuộc tính cơ bản: cường độ (sức mạnh của hưng phấn và ức chế), tính cân bằng hưng phấn và ức chế ngang bằng hay không) và tính linh hoạt (sự chuyển hóa giữa hưng phấn và ức chế có dễ đàng, nhanh chóng hay không). Ở các cá nhân khác nhau, sự kết hợp hai quá trình thần kinh là khác nhau đã tạo ra các kiểu hoạt động thần kinh.
Có bốn kiểu thần kinh thường gặp và là cơ sở sinh lý của bốn kiểu khí chất: Kiểu mạnh, cân bằng, linh hoạt: khí chất linh hoạt; Kiểu mạnh, cân bằng, không linh hoạt: khí chất bình thản; Kiểu mạnh, không cân bằng, linh hoạt: khí chất nóng nảy; Kiểu yếu: khí chất ưu tư.
4.3.3. Các kiểu khí chất điển hình.
4.3.3.1. Kiểu khí chất linh hoạt (hăng hái).
Kiểu khí chất này thuộc về người vui vẻ, lạc quan, thích ứng nhanh, dễ thiết lập các mối quan hệ, dễ chuyển hướng chú ý và nắm thế chủ động, hoạt bát, hóm hỉnh, giọng nói sinh động, vẻ mặt rạng rỡ, không thích công việc đơn điệu, có tính hướng ngoại. Ngoài ra, trí tuệ mềm dẻo, cảm xúc dễ hình thành cũng dễ thay đổi, dễ chấp nhận thất bại cũng là biểu hiện cơ bản.
4.3.3.2. Kiểu khí chất bình thản.
Kiểu khí chất bình thản thường là người phản ứng chậm, bình tĩnh trong mọi tình huống, chậm nắm thế chủ động, ưa ngăn nắp, trật tự, khả năng kiềm chế tốt. Trong quan hệ với người khác ít ba hoa, cãi cọ. Nhận thức chậm nhưng chắc, tình cảm khó hình thành nhưng sâu sắc. Trong công việc thường chịu khó, kiên trì, tự chủ, ít bị lôi cuốn bởi các tác nhân bên ngoài. Khó thích nghi với môi trường mới, có tính ỳ, dễ bỏ lỡ cơ hội.
4.3.3.3. Kiểu khí chất nóng nảy.
Kiểu khí chất nóng nảy là người nhiệt tình, sôi nổi, thẳng thắn, bộc trực. Các hoạt động tâm lý diễn ra nhanh, mạnh. hào hứng và kiên quyết. Cảm xúc bộc lộ rõ rệt qua nét mặt và ngôn ngữ. Thường là người say mê công việc, có khả năng lôi cuốn người khác nhưng khi gặp trắc trở thì dễ chán nản. Trong quan hệ họ thường dễ bị kích động, dễ nổi giận. Hay thay đổi đột ngột về tâm trạng, khả năng kiềm chế thấp.
4.3.3.4. Kiểu khí chất ưu tư.
Kiểu khí chất ưu tư thường là người nhạy cảm, dễ bị tổn thương, hay lo lắng bi quan, giọng nói nhỏ nhẹ, di chuyển từ tốn, suy nghĩ sâu sắc tưởng tượng phong phú. Họ ít cởi mở nhưng tình cảm bền vững, tinh tế. Trong quan hệ thường vị tha, dễ cảm thông với mọi người. Là người hướng nội, hay mơ mộng, khó thích nghi với môi trường mới. Kiên trì trong công việc, thường bị dằn vặt khi gặp thất bại.
Mỗi kiểu khí chất đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định. Ngoài những kiểu khí chất điển hình còn có những kiểu khí chất trung gian pha trộn những đặc điểm giữa các kiểu trên. Khí chất mang dấu ấn của các kiểu thần kinh cấp cao nhưng khí chất không hoàn toàn do các kiểu hoạt động thần kinh quyết định, mà chủ yếu chịu sự chi phối của nhân tố xã hội, khí chất mỗi cá nhân được thay đổi trong những điều kiện sống, giáo dục. Bằng ý thức và sự rèn luyện, con người có thể phát huy những mặt mạnh và hạn chế những mặt yếu của khí chất bản thân mình.
Khí chất là biểu hiện sinh động của nhân cách, khí chất góp phần tạo nên sắc thái của các thuộc tính nhân cách. Trong ứng xử, giáo dục con người thì khí chất là một căn cứ quan trọng để đua ra cách ứng xử hay những biện pháp giáo dục phù hợp. Việc sử dụng con người cần căn cứ vào các đặc điểm khí chất của họ để giao việc cho phù hợp và thúc đẩy họ phát huy tối đa những tố chất của bản thân.
4.4. Năng lực.
4.4.1. Định nghĩa.
Để hoàn thành có kết quả một lĩnh vực hoạt động, con người phải có những đặc điểm, những thuộc tính đáp ứng được yêu cầu của chính hoạt động ấy. Những thuộc tính nhân cách nói lên hiệu quả hoạt động được gọi là năng lực. Mỗi cá nhân có những năng lực nhất định, người thì xuất sắc trong lĩnh vực âm nhạc, người lại giỏi tính toán với các con số, người thì tài tình trong cảm thụ và sáng tác văn học…
Khi xem xét sự khác biệt cá nhân về năng lực, người ta căn cứ vào: tính dễ dàng của hoạt động, số lượng và chất lượng của hoạt động, tính chất độc lập và mức độ sáng tạo trong hoạt động. Thực tế ai cũng có năng lực, chỉ khác nhau ở loại năng lực, số lượng và mức độ của năng lực mà thôi.
Năng lực là tổ hợp những thuộc tính tâm lý độc đạo của cá nhân đáp ứng yêu cầu đặc trưng của hoạt động và đảm bảo cho hoạt động ấy đạt kết quả. Năng lực bao gồm nhiều thuộc tính của cá nhân được kết hợp và tương tác thống nhất với nhau theo yêu cầu nhất định của một hoạt động, cùng tạo nên kết quả hoạt động. Trong đó có những thuộc tính giữ vai trò chủ đạo, có những thuộc tính hỗ trợ và có những thuộc tính làm nền.
Ví dụ: Trong năng lực hội họa, thuộc tính chủ đạo gồm trí tưởng tượng sáng tạo nghệ thuật; thuộc tính hỗ trợ: tính nhạy cảm thị giác cao có thể phân biệt tinh tế về tỉ lệ, màu sắc, độ sáng tối. trí nhớ hình tượng phát triển; thuộc tính làm nền: rung cảm về cuộc sống, về con người, về cái đẹp.
Năng lực có tính độc đáo thể hiện ở sự khác biệt cá nhân về loại năng lực và mức độ năng lực, trong cùng một năng lực thì mỗi cá nhân cũng có sự khác nhau ở cấu trúc, quá trình và phương pháp hoạt động khác nhau, kết quả là tạo ra các sản phẩm đa dạng và sáng tạo.
4.4.2. Các mức độ của năng lực.
– Năng lực: mức độ hoàn thành có kết quả một hoạt động nào đó. Ở mức này, nhiều người có thể đạt được.
– Tài năng: mức độ cao của năng lực, biểu thị sự hoàn thành công việc nhanh chóng, hoàn hảo, sáng tạo, với thành tích cao ít người sánh kịp. Sản phẩm làm ra thường có giá trị lớn, mang tính độc đáo và mới mẻ. Người tài năng thường có sáng kiến trong công việc, ở họ có sự kết hợp của nhiều năng lực trong nhiều hoạt động phức tạp.
– Thiên tài: mức độ cao nhất của năng lực, biểu thị sự hoàn thành một cách đặc biệt xuất sắc có một không hai trong một lĩnh vực hoạt động nào đó. Thành tựu mà thiên tài đạt được có ý nghĩa tạo ra những giá trị mới, một bước ngoặt mới của sự phát triển trong một hoặc nhiều lĩnh vực, mở ra con đường mới, thời kỳ mới cho nhân loại.
4.4.3. Phân loại năng lực.
Có nhiều cách phân loại năng lực dựa trên các tiêu chí khác nhau. Sự phân chia chỉ mang tính chất tương đối. Căn cứ và mức độ chuyên biệt của năng lực, có thể phân chia thành hai loại năng lực:
– Năng lực chung là những năng lực cần thiết cho nhiều hoạt động khác nhau. Ví dụ: năng lực phân tích, trí nhớ, suy luận, tri giác không gian…
– Năng lực chuyên môn (năng lực riêng) là sự kết hợp độc đáo những thuộc tính chuyên biệt đáp ứng yêu cầu đối với một lĩnh vực chuyên môn nhất định. Ví dụ: năng lực Toán học, năng lực Âm nhạc, năng lực Hội họa, năng lực Sư phạm…
Hai loại năng lực chung và năng lực chuyên môn luôn hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Trong thành phần của năng lực chuyên môn bao hàm những năng lực chung và được phát triển từ những năng lực chung theo hướng chuyên biệt. Chỉ có sự phát triển cả hai loại năng lực này mới đảm bảo cho cá nhân đạt kết quả trong các lĩnh vực hoạt động.
4.4.4. Mối quan hệ giữa năng lực.
4.4.4.1. Tư chất và năng lực.
Tư chất là những đặc điểm riêng của cá nhân về giải phẫu sinh lý của não bộ, giác quan, hệ thần kinh, cơ quan vận động, và những chức năng của chúng tạo nên sự khác biệt giữa người này với người khác. Mỗi người sinh ra có những tư chất khác nhau, tư chất mang đậm tính di truyền và bẩm sinh, nhưng tư chất cũng có phần tự tạo trong đời sống cá thể. Chẳng hạn, chức năng của cơ quan phân tích thính giác ở một người có thể được phát triển tinh tế hơn khi được tiếp xúc và vận động với âm nhạc.
Tư chất là điều kiện, tiền đề tự nhiên cần thiết cho sụ phát triển năng lực, tư chất không quyết định trước năng lực của cá nhân, một tư chất nào đó cũng có thể làm tiền đề cho sự phát triển nhiều năng lực khác nhau. Nếu một người có tư chất tốt nhưng không được giáo dục, không gặp hoàn cảnh thuận lợi và không có hoạt động tương ứng thì tư chất ấy cũng bị thui chột.
Tư chất có ảnh hưởng đến chiều hướng, tốc độ của sự hình thành năng lực. Vì thế, những người có tư chất thích hợp với một năng lực nào đó thì sẽ dễ dàng phát triển năng lực ấy hơn những người khác. Mặt khác, tư chất là một nhân tố góp phần tạo ra tính độc đáo và mức độ khác nhau về năng lực giữa các cá nhân.
4.4.4.2. Năng lực và năng khiếu.
Trong cuộc sống, nhiều người bộc lộ rất sớm một số dấu hiệu của một năng lực nhất định được gọi là năng khiếu. Năng khiếu khác với tư chất ở chỗ nó bộc lộ ở một lĩnh vực hoạt động cụ thể, như năng khiếu hội họa, âm nhạc, vận động. Năng khiếu là dấu hiệu phát triển sớm ở trẻ em về một tài năng nào đó khi đứa trẻ chưa được tiếp xúc một cách có hệ thống trong một lĩnh vực hoạt động tương ứng.
Năng khiếu bộc lộ ở một số khía cạnh như: tốc độ vượt trội trong việc hoàn thành một nhiệm vụ so với bạn cũng tuổi, thành tích xuất sắc, thiên hướng hoạt động mãnh liệt hoặc sáng tạo trong một lĩnh vực nhất định. Năng khiếu chỉ là dấu hiện ban đầu hay mầm mống của năng lực.
Một em bé có năng khiếu về âm nhạc hay thơ ca không hẳn sẽ trở thành tài năng trong những lĩnh vực ấy. Trong cấu trúc của năng khiếu có những thành phần cơ bản của năng lực nhưng còn sơ khai, chưa ổn định, chưa được củng cố trong hoạt động thực tiễn vì thế nó có thể thay đổi. Năng khiếu mang nhiều yếu tố bẩm sinh vì con người may mắn có được mà chưa cần tới giáo dục và đào tạo. Năng khiếu cần phải được đào tạo và phát triển trong những điều kiện nhất định mới có thể trở thành tài năng.
4.4.4.3. Năng lực và tri thức kỹ năng kỹ xảo.
Tri thức, kỹ năng, kỹ xảo là vốn kinh nghiệm của con người được cá nhân tích lũy trong quá trình học tập và rèn luyện. Tri thức, kỹ năng, kỹ xảo có quan hệ mật thiết với năng lực nhưng không đồng nhất với năng lực. Tri thức, kỹ năng, kỹ xảo là điều kiện cần thiết cho năng lực, chẳng hạn, không có tri thức, kỹ năng về môn toán sẽ không thể hình thành năng lực toán học.
Tuy nhiên, một người có tri thức kỹ năng, kỹ xảo trong một lĩnh vực chưa chắc có năng lực về lĩnh vực đó. Ngược lại, năng lực góp phần làm cho việc tiếp thu tri thức, kỹ năng, kỹ xảo trong lĩnh vực tương ứng được dễ dàng và nhanh chóng hơn.
5. Sự hình thành và phát triển nhân cách.
Nhân cách không có sẵn từ thuở sơ sinh, cũng không phải là sự bộc lộ dần ra từ các bản năng nguyên thuỷ, nhân cách là sản phẩm “muộn” của con người, là những phẩm chất, những cấu tạo tâm lý mới được hình thành và phát triển trong cuộc sống, lao động, vui chơi, học tập giao tiếp. Dân gian cũng thừa nhận rằng con người có quá trình trở nên nhân cách và chú trọng tới việc rèn luyện để con người có được nhân cách tốt: “Con ơi muốn nên thân người…”.
Sự hình thành nhân cách là tiến trình suốt cả cuộc đời con người dù ở mỗi giai đoạn có những khác biệt nhất định. Con người là một thực thể sống động của sự hòa nhập các mặt sinh học, xã hội, tâm lý và văn hóa, vì thế có rất nhiều yếu tố chi phối sự hình thành và phát triển nhân cách, trong đó các yếu tố quan trọng là: sinh học, môi trường, giáo dục, hoạt động và giao tiếp.
5.1. Yếu tố sinh học.
Yếu tố sinh học gồm các đặc điểm đặc trưng cho mỗi cá thể như: đặc điểm hình thể, giác quan, hệ thần kinh, cấu trúc và chức năng não bộ…Những đặc điểm sinh học có thể là bẩm sinh (sinh ra đã có), hoặc được di truyền (ghi lại trong gen truyền cho các thế hệ sau).
Cũng như mọi hiện tượng tâm lý khác, nhân cách không thể nảy sinh và phát triển bên ngoài một cơ thể sinh học với cơ sở sinh lý là hoạt động thần kinh cấp cao. Tính chất, đặc điểm, các quy luật và khả năng hoạt động của não, hệ thần kinh, giác quan đều ảnh hưởng và chi phối sự hình thành và những biểu hiện của các đặc điểm nhân cách.
Những tố chất sinh học có thể ảnh hưởng tới con đường, tốc độ và sự dễ dàng của một số đặc điểm nhân cách. Chẳng hạn, đặc điểm của hệ vận động, tính mạnh mẽ, dẻo dai và sự dễ dàng thích ứng với hoạt động có thể hướng con người trở thành một vận động viên thể thao; tính chất linh hoạt của hệ thần kinh chi phối các đặc tính của khí chất và tốc độ hình thành năng lực của con người.
Thực tế cũng cho thấy, bằng phương pháp giáo dục đặc biệt có thể phát triển nhân cách cho người khuyết tật ở mức tối đa mà họ có thể đạt tới, nhưng với một người mù bẩm sinh không thể trở thành một họa sỹ thực thụ. Người ta cũng hay căn cứ vào sự giống nhau ở một số nét tính cách giữa những người cùng huyết thống để cho rằng đó là sự di truyền.
Những nghiên cứu về trẻ sinh đôi cùng trứng cho thấy, có sư tương đồng khá lớn về cách thúc phản ứng và cảm xúc của trẻ ở giai đoạn đầu của cuộc đời, càng lớn lên sự khác biệt càng cao và có thể hình thành những nét tính cách khác biệt do những tác động xã hội và sự rèn luyện của mỗi trẻ khác nhau.
Ở một số trường hợp đặc biệt, yếu tố sinh học có thể ảnh hưởng tới mức độ đỉnh cao tạo ra sự khác biệt về những đặc điểm nhân cách nào đó giữa các cá nhân. Lĩnh vực năng lực là minh chứng rõ nhất cho sự ảnh hưởng này, trong những điều kiện như nhau, trẻ nào có yếu tố sinh học ưu thế hơn sẽ có sự phát triển tốt hơn.
Tóm lại, yếu tố sinh học giữ vai trò tiền đề cho sự hình thành và phát triển nhân nhân cách, chúng không quyết định nhân cách ấy như thế nào.
5.2. Yếu tố môi trường.
Môi trường là tập hợp các yếu tố bên ngoài tác động lên hoạt động sống của từng cá nhân và cộng đồng. Có hai cách phân chia về môi trường:
– Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Môi trường tự nhiên: các điều kiện tự nhiên, hệ sinh thái phục vụ cho cuộc sống của con người, môi trường xã hội: môi trường kinh tế – chính trị, văn hóa xã hội, các mối quan hệ xã hội…
– Môi trường vĩ mô và môi trường vi mô. Môi trường vĩ mô là toàn bộ những sự kiện và hiện tượng xã hội diễn ra trong phạm vi rộng về không gian và kéo dài về thời gian. Môi trường vi mô được giới hạn ở phạm vi hẹp, gần gũi với cuộc sống con người bao gồm gia đình, nhà trường, các tổ chức Đoàn, Hội, câu lạc bộ…
Môi trường là nguồn gốc của sự hình thành và phát triển nhân cách. Môi trường tự nhiên có thể tác động một phần đến nếp suy nghĩ hay hướng phát triển năng lực nào đó của con người nhưng không trực tiếp. Các nhà khoa học đều thống nhất thừa nhân ảnh hưởng to lớn của môi trường kính tế, chính trị, văn hóa xã hội với sự phát triển nhân cách.
Một xã hội nghèo đói và xung đột sẽ tác động đến mặt đạo đức và định hướng giá trị của con người sống trong xã hội ấy, nền kinh tế thị trường ứng dụng công nghệ và kỹ thuật cao chi phối hướng phát triển năng lực và hình thành các nét tính cách mới ở con người. Những chuẩn mực, tập tục của các dân tộc, các nền văn hóa góp phần tạo nên bản sắc về lối sống và nét đạo đức của nhân cách.
Môi trường vĩ mô cho con người một không gian học tập và quan hệ rộng mở, hình thành nên một thế giới ngày càng “phẳng” giúp sự hình thành năng lực đa dạng, những nét tính cách mới, nhu cầu thị hiếu cao của con người. Trong môi trường vi mô, gia đình là cái nôi, quy định phần lớn nhân cách của chúng ta. Cha mẹ và người thân trong gia đình góp phần rất lớn cho định hướng lối sống năng lực và nghề nghiệp, đồng thời là người dạy dỗ, uốn nắn con cái về đạo đức phép tắc, cách ứng xử.
Bầu không khí, lối sống, phương pháp giáo dục của gia đình và tấm gương sống thực tế của cha mẹ đều ảnh hưởng lớn đến nhân cách của trẻ. Nếu cha mẹ hay hắt hủi, đứa trẻ sẽ có khuynh hướng phát triển tính gây hấn, thích tấn công người khác. Nếu cha mẹ đàn áp, khắt khe, độc đoán thì đứa trẻ thường có những hành vi gượng gạo, tính cách thiếu tự tin và hay xa lánh người khác.
Môi trường có thể ảnh hưởng tốt, xấu lên cá nhân nhưng cá nhân là chủ thể tích cực luôn sàng lọc trước những tác động của môi trường và tác động trở lại môi trường. Tính chất, mức độ ảnh hưởng của môi trường còn tùy thuộc vào mức độ cá nhân tham gia vào môi trường, vào thái độ nhu cầu, hứng thú, năng lực… của chính họ.
5.3. Giáo dục.
Giáo dục là hoạt động chuyên biệt, có mục đích, có kế hoạch, có chương trình và sử dụng những hình thức, phương pháp tác động dựa trên cơ sở khoa học nhằm hình thành nhân cách con người theo yêu cầu của xã hội. Theo quan điểm duy vật biện chứng, giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong sự hình thành và phát triển nhân cách.
– Giáo dục vạch phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách, xác định mô hình nhân cách trong tương lai đáp ứng yêu cầu của cuộc sống trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
– Thông qua giáo dục, mỗi cá nhân lĩnh hội được nền văn hóa, tri thức, kinh nghiệm được chọn lọc dưới sự dẫn dắt của thế hệ trước. Cách thức tác động của giáo dục dựa trên những thành tựu khoa học, các quy luật nhận thức và quy luật tâm lý của con người… vì thế nó mang lại hiệu quả phát triển cao và rút ngắn về thời gian.
– Giáo dục có thể phát huy, hiện thực hóa các mặt mạnh của các yếu tố khác chi phối sự hình thành nhân cách như yếu tố sinh học, môi trường; đồng thời bù đắp cho những thiếu hụt và hạn chế do các yếu tố này gây ra (bệnh tật, khuyết tật, hoàn cảnh không thuận lợi).
– Giáo dục có thể uốn nắn những sai lệch của nhân cách về một mặt nào đó so với các chuẩn mực, hướng nó phát triển theo mong muốn của xã hội.
– Giáo dục đi trước sự phát triển, giáo dục luôn hướng về trình độ tương lai với những bậc phát triển ngày càng cao.
Tuy nhiên, không nên tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục, cần phải đặt giáo dục trong mối quan hệ với các yếu tố khác.
5.4. Hoạt động và nhân cách.
Mọi tác động của môi trường hay giáo dục đều là những yếu tố bên ngoài, chúng sẽ không thể được phát huy tác dụng và trở thành hiện thực nếu con người không có hoạt động tiếp nhận các tác động ấy. Hoạt động là phương thức của sự tồn tại xã hội loài người nói chung và con người nói riêng.
– Mỗi hoạt động có những yêu cầu đặc trưng, đòi hỏi con người phải có những phẩm chất tâm lý nhất định. Tham gia vào hoạt động, con người phải có những hành động, những thao tác thích hợp với đối tượng của hoạt động, phải phát triển những phẩm chất và năng lực để có thể đáp ứng với hoạt động đó. Nhân cách hình thành từ yêu cầu của chính hoạt động.
– Trong hoạt động diễn ra đồng thời, thống nhất hai quá trình khách thể hóa và chủ thể hóa. Đó chính là diễn biến của hoạt động, thực chất là sự bộc lộ, thể hiện ý thức nhân cách và sự tiếp thu lãnh hội nội dung đối tượng hình thành nhân cách của bản thân. Như vậy, nhân cách hình thành và thể hiện, tồn tại trong hoạt động.
– Trong hoạt động, con người sáng tạo ra những sản phẩm vật chất, tinh thần, đóng góp cho người khác, cho xã hội và cho bản thân, hình thành thái độ và khẳng định giá trị xã hội của nhân cách.
Hoạt động giữ vai trò quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách. Nhân cách không thể có được bên ngoài hoạt động, vì thế muốn hình thành nhân cách cần tổ chức các hoạt động phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức và luôn đổi mới để thu hút con người tham gia. Cũng cần chú ý tới hoạt động chủ đạo của trẻ ở mỗi thời kỳ nhất định, bởi ý nghĩa quyết định của hoạt động này đối với sự phát triển những cấu tạo mới trong nhân cách.
5.5. Giao tiếp và nhân cách.
Cùng với hoạt động giao tiếp có vai trò quyết định sự hình thành vả phát triển nhân cách.
– Hoạt động bao giờ cũng diễn ra trong các mối quan hệ con người vì vậy giao tiếp là điều kiện tồn tại cá nhân và xã hội.
– Qua giao tiếp cá nhân gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội các giá trị, chuẩn mực xã hội chuyển thành những giá trị chuẩn mực của bản thân.
– Trong giao tiếp con người nhận thức người khác, nhận thức bản thân tự so sánh mình với người khác và với các chuẩn mực xã hội, tự đánh giá bản thân, hình thành “cái tôi” khách quan từ đó tự điều chỉnh, thay đổi bản thân.
– Trong giao tiếp, cá nhân tác động và ảnh hưởng đến người khác, tạo ra sự chuyển biến ở người khác và khẳng định giá trị xã hội của mình.
– Giao tiếp hình thành hệ thống thái độ và hành vi ứng xử ổn định, có ý nghĩa xã hội; đồng thời giao tiếp còn hình thành khả năng đồng cảm, một phẩm chất đặc trưng chỉ con người mới có.
Sự hình thành và phát triển nhân cách diễn ra phức tạp, liên tục và lâu dài, trong đó các yếu tố giữ vai trò khác nhau, nhưng cần thấy rằng các yếu tố ấy được phát huy tác dụng khi chúng tương tác và hỗ trợ nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp thúc đầy sự phát triển và hoàn thiện nhân cách.
Tác giả: Lê Thị Hân
Bạn đang xem bài viết:
Nhân cách con người trong Tâm Lý Học
Link https://vnlibs.com/tam-ly-hoc/nhan-cach-con-nguoi-trong-tam-ly-hoc.html