Những chức năng của giao tiếp là gì?

Có khá nhiều quan niệm khác nhau về vai trò hay chức năng của giao tiếp. Mỗi quan niệm sẽ dựa trên những tiêu chí của mình để xác lập nhóm vai trò, từng vai trò cụ thể hay từng chức năng của giao tiếp.

Nghiên cứu về vai trò, chức năng của giao tiếp, tác giả A.N. Leonchiev đã đánh giá cao vai trò của giao tiếp trong quá trình hình thành nhân cách con người nói chung và trẻ em nói riêng.

Ông cho rằng hoạt động của trẻ bao giờ cũng nằm trong giao tiếp. Giao tiếp dưới hình thức cùng hoạt động, hoặc dưới hình thức giao tiếp ngôn ngữ hay thậm chí giao tiếp trong ý nghĩ cũng đều là điều kiện tất yếu và chuyên biệt của sự phát triển con người trong xã hội.

Theo ông trong quá trình giao tiếp, kế hoạch hoạt động chung được hình thành và các yếu tổ hoạt động chung giữa các thành viên được phân bố. Trong hoạt động chung, sự trao đổi thông tin, sự kích thích lẫn nhau, sự kiểm tra và điều chỉnh hành động được thực hiện.

Theo tiêu chí mục tiêu, tác giả L.A. Karpenko cho rằng giao tiếp có tám chức năng sau:

– Chức năng tiếp xúc – mục tiêu: Việc tiếp xúc như là trạng thái chuẩn bị chung để tiếp nhận và truyền đạt thông báo, củng cố quan hệ ở hình thức định hướng lẫn nhau thường xuyên.

– Chức năng thông tin – mục đích: trao đổi các thông báo.

– Chức năng kích thích – mục đích: kích thích tích cực đổi tác giao tiếp, hướng họ thực hiện hành động nhất định.

– Chức năng định vị – mục đích: định hướng và thống nhất hành động trong hoạt động chung.

– Chức năng hiểu biết – mục đích: hiểu biết nội dung thông báo và hiểu biết lẫn nhau giữa các chủ thể giao tiếp.

– Chức năng tạo động cơ – mục đích: khơi dậy ở đối tác những trải nghiệm tình cảm cần thiết đồng thời qua sự giúp đỡ của họ thay đổi trải nghiệm, trạng thái của chính chủ thể.

– Chức năng hình thành các mối quan hệ – mục đích: nhận thức và xác định vị trí bản thân trong hệ thống vai, vị thế, quan hệ.

– Chức năng gây ảnh hưởng – mục đích: thay đổi trạng thái, hành vi, cấu trúc ý hướng cá nhân của đối tác.

Theo nhà ngôn ngữ học cấu trúc Jacobson (1961), mô hình giao tiếp theo cấu trúc có sáu yếu tố: người truyền tin, người nhận tin, bản thông điệp, bộ mã, sự tiếp xúc, bối cảnh giao tiếp. Từ đó, ông nêu lên sáu chức năng của giao tiếp:

– Chức năng nhận thức (function cognitive): truyền đạt và lĩnh hội các sự kiện, khái niệm, giá trị.

– Chức năng cảm xúc (function emotive): tạo ấn tượng, cảm xúc tốt đẹp giữa các chủ thể giao tiếp.

– Chức năng duy trì sự tiếp xúc (fonction phatique): lấp chỗ trống trong các cuộc đối thoại.

– Chức năng mơ mộng (fonction poétique): sử dụng cách nói mang chất thơ, thú vị… để tạo ấn tượng khó phai mờ.

– Chức năng siêu ngữ (fonction métalinguistique): chọn lọc các cách nổi, diễn đạt nghĩa bóng.

– Chức năng quy chiếu (fonction référentielle): tìm hiểu đặc điểm về sức khỏe, tâm lý, vị thế xã hội, hoàn cảnh riêng của người đối thoại khi giao tiếp để chọn cách tiếp cận, lời nói, cách tạo không khí phù hợp, thuận lợi cho thực hiện mục tiêu giao tiếp.

Nhà Tâm lý học Xô viết B.Ph. Lomov cho rằng giao tiếp có ba chức năng cơ bản sau: Chức năng giao tiếp – thông tin; Chức năng giao tiếp – điều chỉnh; Chức năng giao tiếp – cảm xúc.

Theo A.A. Pruzin, giao tiếp có các chức năng: Chức năng công cụ của giao tiếp cần thiết cho sự trao đổi thông tin trong quá trình điều hành và trong quá trình lao động chung; Chức năng nghiệp đoàn thể hiện ở việc đoàn kết nhóm lớn và nhóm nhỏ có ý nghĩa quan trọng trong giáo dục và truyền đạt kiến thức, phương thức hoạt động và tiêu chuẩn đánh giá; Chức năng tự thể hiện hướng đến việc tìm kiếm và đạt được sự hiểu biết lẫn nhau.

Các nhà Tâm lý học Việt Nam cũng nghiên cứu những chức năng khác nhau của giao tiếp. Những nghiên cứu này cũng đem đến những cái nhìn mới về vấn đề giao tiếp và các chức năng của giao tiếp.

Tác giả Nguyễn Xuân Thức phân chia chức năng của giao tiếp thành hai nhóm cụ thể: Nhóm các chức năng thuần túy xã hội bao gồm các chức năng giao tiếp phục vụ các nhu cầu chung của xã hội hay một nhóm người để điều khiển và tác động lẫn nhau; Nhóm các chức năng tâm lý xã hội gồm các chức năng giao tiếp phục vụ các nhu cầu của từng thành viên của xã hội với người khác.

Tác giả Chu Văn Đức cũng chia chức năng của giao tiếp thành nhóm:

– Nhóm chức năng xã hội gồm các chức năng: Chức năng thông tin; Chức năng tổ chức, phối hợp hành động; Chức năng điều khiển; Chức năng phê bình và tự phê bình.

– Nhóm chức năng tâm lý gồm các chức năng: Chức năng động viên, khích lệ; Chức năng thiết lập, phát triển, củng cố các mối quan hệ; Chức năng cân bằng cảm xúc; Chức năng hình thành, phát triển tâm lý, nhân cách.

Theo tác giả Nguyễn Văn Lê thì giao tiếp có ba chức năng: Chức năng thông tin; Chức năng biểu hiện tình cảm; Chức năng liên kết con người, điều khiển, phối hợp hành động.

Còn tác giả Ngô Công Hoàn cho rằng giao tiếp có các chức năng sau đây: Chức năng định hướng hoạt động; Chức năng điều khiển, điều chỉnh hành vi.

Trong khi đó, tác giả Hoàng Anh cho rằng giao tiếp có các chức năng cơ bản: Chức năng thông tin hai chiều giữa hai người hay hai nhóm người; Chức năng tổ chức, điều khiển, phối hợp hành động của một nhóm người trong một hoạt động cùng nhau; Chức năng giáo dục và phát triển nhân cách.

Hai tác giả Trần Trọng Thủy, Nguyễn Sinh Huy trong quyển “Nhập môn khoa học giao tiếp” cho rằng giao tiếp có các chức năng sau: Chức năng tổ chức hoạt động phối hợp cùng nhau; Chức năng làm cho con người nhận thức được lẫn nhau; Chức năng hình thành và phát triển các mối quan hệ liên nhân cách.

Theo tác giả Trần Hiệp, giao tiếp bao gồm ba cấp chức năng cơ bản: Chức năng thông tin liên lạc; Chức năng điều chỉnh hành vi; Chức năng kích động liên lạc.

Ngoài ra, có thể phân chia chức năng giao tiếp thành các chức năng sau: Chức năng tổ chức hoạt động chung; Chức năng nhận thức giữa người với người; Chức năng hình thành và phát triển quan hệ liên nhân cách.

Tâm lý học quản lý nhìn nhận dưới góc độ quản lý cho rằng giao tiếp có các chức năng sau: Chức năng định hướng cho mọi hoạt động và cho việc thiết lập mối quan hệ; Chức năng thông tin, đánh giá lẫn nhau và nối mạch cho thiết lập quan hệ quan hệ; Chức năng điều khiển, điều chỉnh hành vi, việc thiết lập quan hệ giao tiếp.

Dưới góc độ Tâm lý học giao tiếp, tác giả Nguyễn Văn Đồng cho rằng giao tiếp có các chức năng: Chức năng thỏa mãn nhu cầu của con người. Đây là chức năng quan trọng nhất của giao tiếp; Chức năng thông tin; Chức năng nhận thức về tự nhiên, xã hội, về bản thân (tự nhận thức) và về người khác (tri giác xã hội); Chức năng cảm xúc giúp con người thỏa mãn những nhu câu xúc cảm, tình cảm; Chức năng định hướng, tổ chức, phối hợp hoạt động và điều chỉnh hành vi của bản thân và của người khác; Chức năng hình thành và phát triển các quan hệ liên nhân cách.

Với tác giả Huỳnh Văn Sơn trong quyển Tâm lý học giao tiếp thì có thể chia các chức năng giao tiếp như sau: Chức năng thông tin hai chiều (chức năng nhận thức); Chức năng nhận thức và đánh giá lẫn nhau; Chức năng xúc cảm; Chức năng điều khiển, điều chỉnh hành vi; Chức năng phối hợp hoạt động; Chức năng giáo dục và phát triển nhân cách.

Trên cơ sở phân tích các quan điểm trên có thể nhận thấy, nhìn chung giao tiếp có vai trò, chức năng cụ thể như sau:

1. Chức năng thỏa mãn nhu cầu của con người.

Đây là chức năng quan trọng nhất của giao tiếp và cũng là chức năng mà con người sử dụng sớm nhất trong giao tiếp. Giao tiếp không chỉ đáp ứng các nhu cầu đơn giản của con người như ăn, mặc, ở, tự vệ… mà còn cả các nhu cầu cao hơn như nhu cầu nhận thức, nhu cầu tình cảm, nhu cầu truyền đạt kinh nghiệm…

Thông qua giao tiếp, con người có cơ hội chia sẻ kiến thức, bày tỏ tình cảm, bộc lộ kinh nghiệm bản thân. Con người không chi làm cho người khác hiểu được nhu cầu của bản thân mình thông qua giao tiếp mà còn hiểu được nhu cầu của người khác để tương tác một cách phù hợp nhất.

Các nhu cầu đó được thỏa mãn trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua giao tiếp. Do vậy giao tiếp là điều kiện cần thiết để con người tồn tại và phát triển. Với giao tiếp sư phạm, chức năng này cũng thể hiện khá rõ khi thỏa mãn nhu cầu của người giáo viên, học sinh, các lực lượng khác cùng tham gia trong hoạt động sư phạm.

2. Chức năng thông tin hai chiều giữa các chủ thể tham gia giao tiếp.

Đây là chức năng có vai trò quan trọng thứ hai sau chức năng thỏa mãn nhu cầu của giao tiếp. Chức năng này biểu hiện ở khía cạnh truyền thông của giao tiếp thể hiện qua hai mặt truyền tin và nhận tin.

Qua giao tiếp, con người trao đổi với nhau những thông tin nhất định, truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm… cho nhau. Mỗi cá nhân trong giao tiếp vừa là nguồn phát thông tin vừa là nguồn thu thông tin. Cà hai chủ thể đều đóng vai trò tích cực trong quá trình giao tiếp.

Ví dụ khi giáo viên đặt ra một câu hỏi cho học sinh, học sinh sẽ tiếp nhận và giải mã thông tin, từ đó suy nghĩ là phản hồi lại với giáo viên. Nhưng bằng sự khéo léo sư phạm, giáo viên có thể tận dụng ý phản hồi của học sinh để đặt thêm câu hỏi hoặc giúp học sinh có thêm nhiều ý tưởng khác từ sự gợi ý của mình.

Đôi khi, học sinh còn chủ động và biết cách đặt ra những thắc mắc xung quanh câu hỏi của giáo viên, giáo viên nên trân trọng và khen ngợi tính chủ động đó của học sinh – đó là nền tảng cho việc hình thành tính tự chủ và khả năng tư duy phản biện của con người.

3. Chức năng tổ chức, điều khiển, phối hợp hành động của một nhóm người trong cùng một hoạt động.

Đây là chức năng dựa trên cơ sở xã hội của giao tiếp. Trong một nhóm, một tổ chức có nhiều cá nhân, nhiều bộ phận, nên để có thể tổ chức hoạt động hiệu quả, phối hợp nhịp nhàng thì các cá nhân phải có sự tiếp xúc với nhau để trao đổi, bàn bạc, phân công công việc cũng như phổ biến tiến trình, cách thức thực hiện công việc thì mới có thể tạo sự thống nhất, hiệu quả trong công việc chung.

Chính vì vậy, giáo viên cần có sự phối hợp lẫn nhau, thông tin truyền đạt theo chiều dọc lẫn chiều ngang trong giao tiếp với học sinh nhằm thống nhất các nguyên tắc làm việc khoa học. Hay với đồng nghiệp, nhà quản lý và phụ huynh, giao tiếp sư phạm cũng cần tuân thủ theo định hướng phối hợp đa chiều.

Giao tiếp sư phạm không thể mang tính cá nhân hay sự bộc phát mà cần tuân thủ theo những quy định mang tính pháp luật, mang tính giáo dục, mang tính tâm lý. Nhờ chức năng này, con người có thể phối hợp cùng nhau để giải quyết một nhiệm vụ nhất định đạt tới mục tiêu đề ra trong quá trình giao tiếp nói chung, tại trường học nói riêng.

4. Chức năng điều khiển, điều chỉnh hành vi.

Chức năng này thể hiện ở sự tác động, ảnh hưởng lẫn nhau trong giao tiếp. Đây là một chức năng quan trọng trong giao tiếp vì trong quá trình giao tiếp cá nhân có thể tác động, gây ảnh hưởng đến người khác đồng thời người khác cũng có thể tác động, gây ảnh hưởng đối với cá nhân đó.

Học sinh là một nhân cách chưa hoàn thiện, mong manh và dễ nảy sinh những hành vi không phù hợp từ môi trường xung quanh. Nhờ chức năng điều khiển, điều chỉnh hành vi mà giáo viên có thể uốn nắn lại cho các em những hành vi không phù hợp, chưa phù hợp và kịp thời định hướng sự phát triển tích cực.

Đa chức năng điều khiển, điều chỉnh hành vi được đảm bảo, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa gia đình, nhà trường và xã hội nhằm tránh trường hợp một phía đã điều chỉnh, một phía lại có sự tác động ngược lại với sự điều chỉnh ấy, tạo ra mâu thuẫn cho chính học sinh, học sinh không biết làm thế nào là đúng, làm thế nào là không đúng.

Đặc biệt, lứa tuổi thanh thiếu niên là giai đoạn giao tiếp với bạn bè đóng vai trò quan trọng, những ảnh hưởng từ bạn bè trong giao tiếp luôn mạnh mẽ hơn so với người lớn. Chính vì vậy, việc thay đổi vị trí từ người lớn sang vị trí người bạn để tương tác với trẻ là cần thiết để sự điều chỉnh hành vi cho học sinh lứa tuổi học sinh Trung học trong giao tiếp sư phạm trở nên tích cực hơn.

Từ việc tiếp nhận sự điều chỉnh của người lớn, sau này cá nhân có thể điều chỉnh hành vi của mình cũng như điều khiển hành vi của người khác trong giao tiếp. Đó là một định hướng mang tính tích cực và nhân văn với con người. Trong giao tiếp, cá nhân có thể tác động đến động cơ, mục đích, quá trình ra quyết định và hành động của người khác.

5. Chức năng xúc cảm.

Chức năng này giúp con người thỏa mãn những nhu cầu xúc cảm, tình cảm. Trong giao tiếp, cá nhân có thể biểu lộ thái độ, tâm trạng của mình đối với người khác cũng như có thể bộc lộ quan điểm, thái độ về một vấn đề nhất định.

Với học sinh trung học, nhu cầu thể hiện và khẳng định bản thân rất cao, các em mong muốn được người lớn tôn trọng và đối xử với mình như người lớn. Đồng thời, các em cũng mong muốn được quan tâm và chia sẻ những thắc mắc trong tuổi mới lớn.

Giáo viên cần chú ý đến nhu cầu này để tương tác cảm xúc cho phù hợp, tránh sự áp đặt vì điều đó sẽ nảy sinh sự thiếu tin tưởng và bất mãn nơi người học. Giáo viên sẽ giao tiếp với học sinh thuận lợi hơn khi các em có niềm tin vào giáo viên.

Ngược lại, nhờ giao tiếp, cá nhân cũng có thể nhận biết những xúc cảm, tình cảm nhất định của các cá nhân khác. Người lớn cần đáp lại yêu thương khi học sinh bày tỏ cũng như biết cách thể hiện yêu thương một cách chân thành, và phù hợp nhằm xây dựng đời sống tình cảm phong phú cho các em.

Tuy nhiên, cần phân biệt yêu thương với nuông chiều, nhằm hạn chế hình thành tính ỷ lại, tính bướng bỉnh ở học sinh. Sự pha trộn giữa nghiêm khắc với yêu thương là một nghệ thuật giao tiếp sư phạm mà giáo viên cần hoàn thiện. Giao tiếp cùng là một trong những con đường hình thành tình cảm của con người.

Đây là chức năng giáo viên cần chú ý để có những biện pháp phù hợp cho phép hình thành những tình cảm trong sáng, nhân văn ở lứa tuổi thanh thiếu niên trong giao tiếp sư phạm nói riêng và trong hoạt động sư phạm nói chung.

6. Chức năng nhận thức và đánh giá lẫn nhau.

Trong quá trình giao tiếp, ở các chủ thể luôn diễn ra quá trình nhận thức các tri thức về tự nhiên, xã hội, nhận thức bản thân và nhận thức về người khác, nhằm hướng tới những mục đích khác nhau trong giao tiếp.

Giao tiếp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho con người trong quá trình nhận thức các tri thức về tự nhiên, xã hội, giúp con người lĩnh hội được khối lượng kiến thức khổng lồ của nhân loại. Bên cạnh đó, giao tiếp là phương tiện giúp cá nhân tự nhận thức bản thân.

Khi bước vào tuổi lên 3, nhờ vào khả năng tự ý thức, trẻ biết so sánh, đối chiếu mình với các bạn, với người lớn để nhận thức vấn đề một cách chủ động. Đến tuổi trung học cơ sở và trung học phổ thông, khả năng này tiếp tục được hoàn thiện.

Tuy nhiên, do khả năng còn khá hạn chế nên đôi khi sự đánh giá bản thân cũng như người khác còn có những sai lầm, thiếu sót. Vị thành niên mới lớn thường dễ có xu hướng cường điệu trong khi tự đánh giá. Hoặc là các em đánh giá thấp cái tích cực, tập trung phê phán cái tiêu cực; hoặc là đánh giá cao nhân cách mình – tỏ ra tự cao, coi thường người khác.

Giáo viên cần quan sát để nhận ra kịp thời giúp học sinh nhận thức một cách phù hợp hơn khi tiến hành giao tiếp sư phạm. Nhờ chức năng nhận thức và đánh giá lẫn nhau mà cá nhân tiếp thu những đánh giá về bản thân, từ đó có sự đổi chiếu và tự nhận thức, tự đánh giá lại, tự điều chỉnh bản thân.

Ngược lại, cá nhân cũng có sự nhận thức về người khác qua giao tiếp nhàm tìm hiểu, đánh giá về đối tượng mình giao tiếp để từ đó có sự định hướng phù hợp hơn trong giao tiếp.

7. Chức năng giáo dục và phát triển nhân cách.

Thông qua giao tiếp, con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội từ đó hình thành, phát triển nhân cách của mình. Do đó, giao tiếp là điều kiện để tâm lý, nhân cách cá nhân phát triển bình thường. Thông qua giao tiếp nhiều phẩm chất của con người, đặc biệt là các phẩm chất đạo đức được hình thành và phát triển.

Nói cách khác, giao tiếp giúp con người tiếp nhận những kinh nghiệm và những chuẩn mực, thông qua đó có sự hình thành và phát triển nhân cách một cách toàn diện trên bình diện con người – cá nhân. Chính những chức năng này cũng ảnh hưởng và tạo nên vai trò hết sức độc đáo của giao tiếp.

Giao tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển của cá nhân cũng như ảnh hưởng đến đời sống xã hội của con người và là điều kiện của sự tồn tại và phát triển xã hội. Với học sinh, giao tiếp đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách.

Thông qua giao tiếp với người lớn, học sinh có thể lĩnh hội được nền văn hóa xã hội (bao gồm những giá trị vật chất và giá trị tinh thần), chuyển biến cái chung thành cái riêng để từ đó dần hình thành nên đời sống tâm lý ở bản thân các em.

Theo thời gian, hoạt động giao tiếp ngày càng đa dạng, phong phú hơn, trẻ cũng chủ động và tích cực hơn, thúc đẩy đời sống tâm lý từ rời rạc, chưa thống nhất đến toàn vẹn và thống nhất hơn. Phản ứng hành vi của học sinh ngày càng trưởng thành hơn nhờ sự tương tác tích cực với người lớn, trong đó giáo viên đóng vai trò quan trọng khi tiến hành giao tiếp sư phạm.

Các chức năng trong giao tiếp đều thể hiện rất rõ trong giao tiếp sư phạm, đặc biệt các chức năng như điều chỉnh, điều khiển hành vi; chức năng xúc cảm; chức năng giáo dục và phát triển nhân cách là những chức năng có tác dụng tích cực đối với đời sống tâm lý của trẻ.

Giáo viên cần hiểu rõ những các chức năng này để khi thực hiện các hoạt động giáo dục thì linh hoạt tạo ra các tình huống để giúp trẻ có thể điều chỉnh lại những hành vi chưa phù hợp, nảy sinh được những xúc cảm tích cực với bạn bè, gia đình, xã hội, trường lớp… Đây là những chất liệu quý báu để hình thành những tình cảm đạo đức trong tương lai cho hoc sinh.

Tác giả: Huỳnh Văn Sơn


Tài liệu tham khảo:

[1] Michael Hensley, The Functions of Communication, ENLibs


Bạn đang xem bài viết:
Những chức năng của giao tiếp là gì?
Link https://vnlibs.com/giao-tiep/nhung-chuc-nang-cua-giao-tiep-la-gi.html

Mọi người cũng tìm kiếm: 5 chức năng của giao tiếp. Vai trò của giao tiếp. Ví dụ về 7 chức năng giao tiếp. hãy lấy ví dụ về các chức năng của giao tiếp (5 chức năng). Chức năng giao tiếp của ngôn ngữ. Các thành phần của quá trình giao tiếp. Giao tiếp là gì. Quá trình giao tiếp là gì.

Mọi người cũng hỏi: Giao tiếp định nghĩa là gì? Mục đích và ý nghĩa của giao tiếp là gì? Hành vi giao tiếp là gì? Giao tiếp trọng Tâm lý học là gì?