Tranh Hàng Trống ca ngợi cảnh sắc đất nước và giáo dục

Một dòng tranh dân gian ở giữa đô thành, in vẽ quanh năm. Nhưng tập trung vẫn là dịp giáp Tết, trước Cách Mạng Tháng Tám 1945 vẫn bày bán chủ yếu ở phố Hàng Trống.

Rồi đến các phố Hàng Nón, Hàng Hòm, Hàng Quạt,… đó là tranh dân gian Hàng Trống. Gần gũi với kỹ thuật in tranh, khu vực này trước kia còn nhiều nhà chuyên in những sách truyện thơ Nôm, và một số vở chèo, vở tuồng.

Đồng thời, khu vực này còn làm và bán nhiều mặt hàng thủ công mỹ nghệ, các loại trống, các thứ hòm, tráp sơn, các kiểu quạt, nhiều kiểu nón, các loại đàn, có cả lọng, tàn, tán, cờ quạt, áo xiêm, mũ quãng,… cho quan lại, cho việc thờ cúng tế lễ, và cho cả các gánh hát tuồng, chèo,…

Vào dịp Tết, tranh dân gian không chỉ bán ở cửa hiệu mà còn được bán ở các quầy, treo bày trên các vỉa hè đông người qua lại. Và nổi lên bên cạnh các quầy bán tranh là cảnh những ông đồ già ngồi (hoặc nằm bò) trên chiếu, viết thuê câu đối và viết các đại tự có nội dung chúc mừng.

Mỗi chữ choán kín một tờ giấy hồng khổ lớn, thường là các chữ Xuân, Thọ, Khang, Ninh, Phúc, Đức, Phú, Quý, Lộc,… Mỗi nét chữ là cả một nghệ thuật viết. Khi đâm bút, lúc nương nhẹ, khi lướt nhanh, lúc tỉ mỉ. Tất cả đều chứa đựng các yếu tố của nghệ thuật hội họa.

Nghệ nhân làm loại tranh này, ngoài một số người làng Tự Tháp (Hàng Trống) nhiều đời sống ở Thăng Long. Còn có những người làm nghề vẽ từ nhiều vùng khác tìm đến đây để làm ăn sinh sống.

Trong số nghệ nhân này, một số người vốn từ Bình Vọng (Thanh Trì) ra, mang theo phong cách vẽ tranh quê mình đến đô thành, và cùng với phong cách tranh vốn có ở nơi đây, dần dần tạo thành một phong cách mới, mang tên gọi phong cách Hàng Trống.

Phố Hàng Trống mới có, nhưng tranh Hàng Trống thì có sớm hơn nhiều. Ngay từ thế kỷ XVI, Hoàng Sĩ Khải ở bài thơ dài Tứ Thời Khúc Vịnh, đoạn tả cảnh Tết ở kinh thành Thăng Long, đã có nói đến các tờ tranh dân gian và tục chơi tranh Tết, như sau:

“Chung Quỳ khéo vẽ nên hình. Bùa đào cấm quỷ, phòng linh ngăn tà… Tranh vẽ gà, cửa treo thiếp yểm. Dưới thềm lầu hoa điểm Thọ Dương…”

Rõ ràng là ngày Tết, các gia đình ở kinh thành có treo tranh Chung Quỳ cùng với các thần trừ ma khác, vẽ trên gỗ đào, có treo tranh Gà, cả tranh người đẹp.

Viện Bảo Tàng Lịch Sử hiện còn giữ được một số ván in tranh Hàng Trống được khắc cả hai mặt niên hiệu: “Quý Mùi lục nguyệt khởi. Minh Mệnh tứ niên”. Tức là những ván này được khắc vào năm 1823.

Lúc này, là lúc các tranh dân gian truyền thống đã ổn định. Từ đó, tranh Hàng Trống càng thêm phong phú bởi các nghệ nhân tài hoa, tiếp tục từ nhiều vùng quê về đây hội tụ.

Tranh dân gian vốn có quan hệ tín ngưỡng bắt nguồn từ thời nguyên thủy, và sau đó là một số yếu tố của Phật Giáo và Đạo Giáo. Vì vậy, từ những hình thức vẽ bùa, khoán, dần dần có tranh các vị Tiên Thánh, Tổ,… vẽ theo huyền thoại, xuất hiện trong khoảng từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII.

Thế rồi, một bộ phận không nhỏ của tranh Hàng Trống là tranh thờ, như các tranh Tứ Phủ, tranh Tam Phủ, vẽ các bà Mẫu Thoải, Thượng Thiên, Thượng Ngàn, các thần tướng Bạch Hổ, Hắc Hổ, hay Ngũ Hổ và các bức Thánh Trần, Ông Hoàng, Cậu Quận,…

Từng được phổ biến một thời ở kinh thành Thăng Long xưa, đều là những bức tranh đẹp, có tính thẩm mỹ hấp dẫn. Chẳng hạn như, nếu tước bỏ đi những tính tôn giáo của ấn kiếm, cờ lệnh,… thì loại tranh hổ chính là những tác phẩm dân gian, có giá trị nghệ thuật cao.

Từ những dáng hổ ngồi, hổ đứng, hổ đằng vân, đến những ánh mắt, chòm râu, vẻ mặt, cùng khí thế toàn thân, đều toát lên sức sống mãnh liệt của những chúa sơn lâm.

Bởi vậy, tuy là tranh thờ, nhưng hiệu quả nghệ thuật mà tác phẩm đưa tới cho người xem, không phải là cảm xúc tôn giáo thần bí, mà là những cảm xúc thẩm mỹ trần tục, tràn đầy nhựa sống.

Bên cạnh loại tranh thờ, trang Hàng Trống còn nổi bật ở các bộ tứ bình, gồm những tranh Tứ Quý, tranh Tố Nữ và tranh truyện, hoặc có khi là nhị bình chỉ gồm hai bức treo thong dong như câu đối.

Những tranh tứ bình hay nhị bình đều là tranh dài, treo dọc và thường có tra trục đế khi treo kéo căng tờ tranh, mà khi cất có thể cuộn tròn lại gọn nhỏ.

Bộ Tứ Quý vẽ cảnh những cây cối, hoa lá, chim hoặc thú, tượng trưng cho bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông. Mùa Xuân thường vẽ cảnh Mai – Điều, tức hoa mai và chim, hay Trúc – Mai là tín hiệu của mùa Xuân tươi tốt.

Mùa Hạ thường gợi bằng cảnh Liên – Áp tức hồ sen có vịt bơi tung tăng. Mùa Thu được tượng trưng bởi cảnh Cúc – Điệp, tức hoa cúc và bướm, còn mùa Đông thương được tả bằng Tùng – Lộc tức hươu và thông, loại cây xanh tốt ngay cả trong mùa đông giá lạnh, tượng trưng cho sức sống hiên ngang và mãnh liệt.

Bộ Tứ Quý còn vẽ các cảnh Mai – Hạc, Phù Dung – chim Trĩ, hoa cúc (hay cây ngô đồng) – chim Phượng – chim Công. Có người lại vẽ Trúc – Hổ (hoặc chim Yến), Tiêu – Tượng (cây chuối và con voi), hay Liên – Giải (hoa sen và con cua), Lan – Điệp (hoa lan và bướm), hay Liễu – Mã (cây liễu và con ngựa),…

Bộ Tứ Bình còn vẽ cảnh bốn lớp người lao động trong xã hội cũ, gồm có Ngư – Tiều – Canh – Mục là những người đánh cá, kiếm củi, làm ruộng và chăn trâu.

Đẹp và phổ biến hơn cả trong loại tranh Tứ Bình là bốn bức Tố Nữ, vẽ mỗi bức một người đẹp: các cô cổ cao ba ngấn, vấn tóc đuôi gà, mặc áo dài, quần lĩnh hoa chanh, dáng đứng chững chạc, cô múa quạt, cô gảy đàn, cô thổi sáo, cô đánh xênh.

Mỗi người một vẻ, cao thấp khác nhau, tạo nên vẻ đẹp hài hòa, theo những tiêu chuẩn cổ điển, truyền thống, đậm đà tính chất dân gian. Tranh bộ Tứ Bình còn vẽ liên hoàn phỏng theo một số truyện Nôm nổi tiếng, được nhân dân yêu thích, như các truyện Thạch Sanh, Kiều,…

Bên cạnh tranh bộ tứ (Tứ Bình) còn có tranh bộ đôi (Nhị Bình). Bộ tranh Nhị Bình rất phổ biến là Lý Ngự Vọng Nguyệt, thường gọi nôm là Cá Chép Trông Trăng, và Thiên Hạ Thái Bình tức Chim Công Múa.

Cá tức ngư, theo một cách lý giải dân gian là gần âm với dư là thừa thãi đủ đầy. Cá chép còn biểu tượng của nghị lực và chí lớn bắt nguồn từ tích truyện dân gian Cá Vượt Vũ Môn để hóa thành Rồng: “Mồng bốn cá đi ăn thề. Mồng tám cá về cá vượt vũ môn”.

Con chim công có bộ lông tuyệt đẹp, đỏm dáng, hay xòe ra múa là tượng trưng cho sự thịnh trị, thái bình, no đủ, và cũng gợi bầu trời. Tranh Hàng Trống cũng có một bức lấy đề tài trong sinh hoạt ở nông thôn, thường bao quát cả một không gian rộng và thời gian dài.

Tiêu biểu là các bức Chợ Quê và Canh Nông Chi Đồ (Bức tranh Canh Nông). Từ trên một điểm quan sát, cảnh họp chợ ở một vùng quê nhỏ hiện ra đông đúc, nhộn nhịp và cả ồn ào nữa.

Người bán hàng dưới gốc đa cổ thụ, trong những túp lều, đủ các mặt hàng thuộc nhiều nghề khác nhau: thịt, cá, gà, vịt, rau, quả, đồ gốm, lò rèn,… Bên cạnh người đi mua bán tấp nập tới lui, có cả kẻ gian tham rình mò, cả kẻ mồi chài.

Các lớp người được lột tả rất đúng, các công lái trâu, lái lợn thì “cò kè bớt một thêm hai”, các ông thợ rèn thì mình trần quai búa, các bà các cô thì đỏm dáng, người nón thúng quai thao, người áo dài tứ thân, người yếm hồng áo cánh,…

Lại có cả anh nhà nghèo rít xong điếu thuốc lào ngồi tựa gốc cây tự an ủi: “bần nhi lạc” (nghèo mà vui)… thật đúng là một xã hội tiểu nông thu nhỏ, được nghệ nhân, dân gian giữ lại thật chính xác và dí dỏm.

Còn ở bức tranh Canh Nông Chi Đồ, nghệ nhân chia ra từng mảng, vẽ liên hoàn các cảnh theo thời gian đóng kín một nông vụ sản xuất, từ cảnh vỡ đất cày bừa, tát nước, gieo mạ, nhổ mạ, cấy lúa, gặt lúa, gánh lúa, đập lúa,… đến cảnh chế biến nông sản, xay lúa, giã gạo.

Mỗi công đoạn được diễn ra trong một không gian tổng hòa với những hoạt động phụ. Cảnh thu hoạch diễn ra trên sân nhà, bên cạnh những người vui đập lúa, xay thóc, giã gạo, giần sàng, còn có các mẹ vui với con trẻ, có lợn gà, chim câu quấn quýt trên sân rộng được bao bởi hàng rào tre, ngoài xa là đồng ruộng.

Tranh Hàng Trống sinh ra ở giữa kinh thành, nên có một mảng phản ánh ước vọng và đời sống của lớp thị dân. Đó là loại tranh Tam Đa, Thất Đồng, Tử Tôn Vạn Đại,… Tam Đa là ba cái nhiều: Phúc – Lộc – Thọ, tượng trưng bằng ba ông già.

Còn Thất Đồng là bảy em bé bụ bẫm giống nhau như bột nặn, đang vây quanh gốc đào tìm cách hái quả tiên trường thọ. Tử Tôn Vạn Đại là cả một bầy con cháu đang chơi đùa, để làm vui lòng ông bà già, mong muốn một sự nối đời dài lâu,…

Về nhiều đề tài khác, tranh Hàng Trống có sự trùng hợp với tranh Đông Hồ. Nhưng về phong cách nghệ thuật, thì có sự phân biệt rõ ràng. Đó là Cóc Dạy Học, là Chuột Vinh Quy, là Gà và Lợn,…

Chỉ sơ qua một vài đề tài, đã thấy sự phong phú của tranh Hàng Trống, và sức sống của nó trong nhân dân Thăng Long cũng như trong đông đảo nhân dân cả nước. Tranh Hàng Trống sinh ra và tồn tại suốt nhiều thế kỷ, để phục vụ nhân dân kinh thành.

Là nghệ thuật dân gian. Song nó đã vượt lên trên chất mộc mạc, đạt được sự tinh tế và bề thế, thỏa mãn được thị hiếu của người Hà thành thanh lịch. Đặc sắc nhất của tranh Hàng Trống, chính là những tranh thuộc loại tứ bình và nhị bình. Từng bộ bốn hoặc hai bức vuông dài thong dong, treo trên các mảng tường vôi mới tương đối thoáng đãng.

Trong khuôn khổ bề thế, các cảnh sắc thiên nhiên và con người trong tranh cứ ngời ngời, rực rỡ và tươi mát, ăn nhập với chậu quất, cành đào, và những bình hoa nhiều hương sắc khác nhau, với cả nhiều đồ quý khác, và cả vẻ lịch thiệp, nhã nhặn, hiếu khách của người chơi tranh.

Trong tranh Hàng Trống, phối hợp với nét in tinh nhỏ, màu trên tranh phần lớn được vờn tay rất bay bướm, các sắc độ đậm nhạt chuyển đổi ý nhị, gây hiệu quả cao tạo khối cho hình. Màu ở tranh Hàng Trống mịn mỏng, và tươi, làm cho không khí trong nhà rực rỡ hẳn lên.

Tranh Hàng Trống có gợi khối, nhưng không tả thực theo hình mẫu tự nhiên, mà nó lấy hình để gợi ý theo chủ đề, bố cục theo phối cảnh ước lệ, đảm bảo tính cân đối trong không gian, thỏa mãn yêu cầu thuận mắt của người xem.

Các nhân vật cứ dàn trải ra khắp mặt tranh, không che khuất nhau, có khi dàn ra cắt đôi thành hai hàng trên và dưới (tranh Chuột Vinh Quy). Các thời gian khác nhau có khi được diễn tả theo từng mảng trên cùng một mặt tranh.

Loại này phổ biến ở tranh truyện (tranh Kiều, Thạch Sanh, Bích Câu Kỳ Ngộ,…) và cả ở tranh kể chuyện một công việc dài ngày (tranh Canh Nông Chi Đồ).

Các nhân vật ở tranh Hàng Trống được thể hiện to nhỏ không phải tuân theo luật xa gần, mà là theo địa vị xã hội, rõ nhất là tranh thờ: Các ông Hoàng, bà Chúa phải lớn hơn người hầu.

Thần phải lớn hơn dân, và luôn ở vị trí trung tâm (trên cao, giữa tranh). Còn các nhân vật mà thân phận xã hội giống nhau, hoặc không khác nhau bao nhiêu, thì thường được vẽ theo cùng một cỡ.

Những tranh thờ ngày nay không phổ cập nữa, nhưng tranh Hàng Trống còn nhiều loại khác, nhất là các bộ tứ bình về bốn mùa, về tố nữ, về chuyện cổ và các bộ nhị bình như công và cá,… ca ngợi cảnh sắc đất nước, giáo dục tình yêu quê hương… và nhiều chủ đề khác nhau về sinh hoạt xã hội.

Đang còn có giá trị không chỉ về lịch sử mà cả về thực tiễn nữa. Ngoài ra, những bài học về xử lý ánh sáng, màu sắc, đường nét và bố cục của tranh Hàng Trống vẫn mãi mãi xứng đáng cho các họa sĩ học tập, và vận dụng vào sáng tác ngày nay.

Tác giả: Chu Quang Trứ


Bạn đang xem bài viết:
Tranh Hàng Trống ca ngợi cảnh sắc đất nước và giáo dục
Link https://vnlibs.com/dieu-khac/tranh-hang-trong-ca-ngoi-canh-sac-dat-nuoc-va-giao-duc.html

Các tìm kiếm có liên quan: Giá trị nghệ thuật của tranh Hàng Trống như thế nào? Giao thoa tinh hoa Phật Giáo và Nho Giáo thông qua tranh. Khái quát về dòng tranh hàng Trống xưa và nay. Khám phá bảng tranh dân trang Hàng Trống trên mạng.

Các tìm kiếm có liên quan: Màu sắc trong tranh hàng Trống có gì đặc biệt. Một nét văn hóa độc đáo xứ Hà Nội với tranh Hàng Trống. Mua tranh Hàng Trống ở đâu uy tín chất lượng giá tốt. Nét đẹp truyền thống của người Việt Nam về tranh dân gian.

Các tìm kiếm có liên quan: Nội dung và ý nghĩa của tranh Hàng Trống có gì. Những dòng tranh dân gian nổi tiếng của dân tộc Việt Nam. Những dòng tranh dân gian Việt Nam làm chủ yếu tại phố Hàng Trống. Địa chỉ chuyên bán tranh Hàng Trống giá rẻ.

Các tìm kiếm có liên quan: Những người thợ kinh kỳ phục vụ cho tầng lớp thị dân xem tranh. Tìm hiểu chi tiết về chủ đề và thể loại của tranh Hàng Trống. Trang Hàng Trống được sản xuất ở đâu tại Việt Nam. Tranh hàng Trống sử dụng kỹ thuật nữa in nữa vẽ.