Trong hoàn cảnh nước ta công nghiệp chưa phát triển, nông nghiệp còn lạc hậu, thì sản phẩm thủ công nghệ thuật chính là nguồn hàng xuất khẩu quan trọng về kinh tế.
Đồng thời, là một cách giới thiệu văn hóa truyền thống cho bạn bè khắp thế giới. Đối với trong nước, từ sau chủ trương đổi mới của Đảng và nhà nước nhằm thực hiện dân giàu nước mạnh xã hội văn minh.
Đất nước ngày càng khởi sắc và nhân dân đang thực sự có nhu cầu, sử dụng đồ dùng thủ công nghệ thuật làm đẹp cuộc sống của mình. Như vậy, cả hoạt động đối ngoại và đối nội, cả đời sống kinh tế và văn hóa, đều đang đòi hỏi các nghề thủ công nghệ thuật cần được phát triển.
Đó là một cơ may cho các làng nghề, phố nghề và các nghệ nhân. Nhiều nơi nhờ nhạy bén thời cuộc, đã phất lên nhanh chóng: Làng gốm Bát Tràng thay da đổi thịt, các làng gốm ở Đồng Nai, Sông Bé đều phát triển khá mạnh, các làng làm đồ mộc chạm Thiết Úng và Đồng Kỵ đã mọc lên những khu phố mới sầm uất.
Ở đấy, không những chỉ con cháu các nghệ nhân theo nghề ông cha, mà còn thu hút thanh thiếu niên trong vùng đến học nghề và ở lại hành nghề. Đội ngũ thợ trẻ đã biểu hiện rõ sự tinh, nhanh, tháo vát, không hổ với ông cha.
Nhiều cơ sở làm nghề đúng đắn, lấy chất lượng làm uy tín, đã trở thành địa chỉ tin cậy của bạn hàng trong và ngoài nước. Song, bên cạnh đó lại có những cơ sở chỉ chạy theo lợi nhuận, làm cho mặt hàng bị tầm thường hóa.
Trong thành đạt và cả trong tai tiếng, đều có nguyên nhân chủ quan và khách quang. Và trách nhiệm quản lý của Nhà nước cần sự đổi mới thiết thực.
Với kinh tế nông nghiệp lúa nước kiểu cũ, người Việt vốn rất khéo tay, các nghề thủ công sớm phát triển. Ngay từ thời quân chủ, nhiều mặt hàng thủ công đã trở thành quà bang giao hữu nghị của Nhà nước, được xuất sang nhiều nước ở Châu Á và Châu Âu, thậm chí nhiều khi thương nhân nước ngoài phải ứng tiền đặt hàng từ năm trước.
Nhiều nghệ nhân tài hoa đã bị triều đình Thăng Long và Huế bắt về kinh theo chế độ công tượng, để trang trí cung điện, hết hạn nghĩa vụ, có người về quê, có người ở lại kinh thành hành nghề lập nghiệp, tạo nên những phố nghề, và xây dựng mối quan hệ nông thôn/thành thị trên cả hai mặt huyết tộc và nghề nghiệp.
Không ít nghệ nhân với tài khéo đã trở thành giai thoại như Đào Thúc Kiên vẽ quả dưa bở như thật, sau trở thành bố vợ vua Lê Cảnh Hưng; Tô Phú Vượng đóng ngai vua rồi thử mà suýt mất mạng, sau nhờ tạc hạt gạo thành con voi mà được tha, lại được phong là “Kỳ Tài Hầu” đã để lại tượng Ngọc Hoàng vua Lê Cảnh Hưng ở chùa Đông Cao (Hải Dương),…
Năm 1888, chỉ riêng làng đúc đồng Đại Bái (Bắc Ninh) đã có 24 thợ giỏi vào trang trí cung điện Huế, và được phong danh tặng hàm. Thời Nguyễn, làng chạm gỗ Thiết Úng (Hà Nội) có nhiều thợ giỏi được triều đình phong “Bá Hộ Cửu Phẩm”, có cụ còn được phong là “Hàn Lâm”, có lúc làng có trên 70 cụ bá,…
Thợ thủ công nghệ thuật với số vốn ít thật ít ỏi có thể làm đẹp cho đời, làm giàu cho đất nước. Thực dân Pháp vừa chiếm được nước ta, đã rất quan tâm khai thác mặt hàng này, để vừa bóc lột được nhiều lại vừa được tiếng quan tâm văn hóa thuộc địa. Chúng đưa hàng thủ công nghệ thuật Việt Nam vào các cuộc Triển lãm Thuộc địa.
Chẳng hạn, Triển lãm Lyon năm 1893 riêng tỉnh Bắc Ninh trưng bày 21 mặt hàng thủ công các làng nghề Đại Bái, Bút Tháp, Đình Bảng, Kiêu Ky, Phù Lãng,… gồm từ cái lư hương đất nung giá $10 đến cái bàn tròn một chân bằng đồng giá những $45.
Triển lãm Paris năm 1900, có sự tham dự của nhiều nghệ nhân các ngành. Triển lãm Marseille năm 1906 nghệ nhân thêu Nguyễn Văn Nam của thị xã Bắc Ninh xuất hiện lần thứ 2, cùng với 2 thợ bạn và nghệ nhân Nguyễn Văn Chi của làng mộc chạm Thiết Úng cũng mang theo 4 thợ bạn sang tham gia.
Báo chí ngày ấy cho biết: “Phía trước gian hàng, Nguyễn Văn Nam cùng 2 thợ thêu cặm cụi thêu trên hàng lụa Li-ông. Người đi hội chợ vây quanh trầm trồ xem những rồng phượng, hoa lá hiện dần lên vải dưới những bàn tay tài hoa. Bên trái, 5 người thợ của nhóm Nguyễn Văn Chi kỳ cạch đóng sập gụ, tủ chè với nhiều chi tiết chạm trổ tinh vi,…”
Họ sản xuất và bán hàng tại chỗ. Chỉ trong thời gian mở cửa triển lãm, riêng ông Nam đã thêu được 915 trên 2180 sản phẩm trưng bày. Cả hai nhóm nghệ nhân trên đều đạt huy chương đồng.
Cùng với việc đào tạo thợ làng nghề, chính quyền thực dân Pháp cũng đã nhanh chóng mở một số trường thủ công nghệ thuật: Trường Mỹ nghệ Thủ Dầu Một (1901) với 4 bộ môn là mộc, môn điêu khắc, khảm xà cừ và đúc đồng; Trường Mỹ nghệ Biên Hòa (1907) về gốm sứ và đúc đồng; Trường Nghệ thuật bản xứ Gia Định (1913) nâng cao việc dạy nghề của trường Biên Hòa; Trường nghệ thuật thực dụng Hà Nội (1902);… để đào tạo thợ thủ công nghệ thuật lành nghề.
Thực dân Pháp không thiện chí gì với dân ta, chúng khuyến khích hàng thủ công nghệ thuật phát triển, chỉ nhằm thỏa mãn cuộc sống của chúng ở thuộc địa với giá rẻ mạt và xuất khẩu thu lãi lớn nhất, song về khách quan đã thúc đẩy các nghề này phát triển mạnh mẽ.
Các nghệ nhân dù đào tạo qua thực tế hành nghề, hay qua trường lớp thì họ đều nằm trong các hiệp hội thợ có trách nhiệm với danh dự làng nghề, phố nghề của mình. Nên luôn có ý thức về chất lượng sản phẩm.
Làng mộc chạm Thiết Úng còn nhớ cụ Bá Căng ghép ván xít liền cả vân như một mảnh xẻ ở cây ra, đóng đồ toàn gỗ lõi không lẫn một tí giác, đóng gói gửi đi cẩn thận, không hề nứt, bảo hành tối thiểu 5 năm. Dân làng hàng năm còn có hội Trí xảo để cùng nâng cao tay nghề.
Sau Cách Mạng Tháng Tám, đất nước liên tục phải kháng chiến chống Pháp rồi lại chống Mỹ, cuộc sống thiếu thốn cần có đồ để dùng chưa cần đồ tốt, các nghề thủ công nghệ thuật không có điều kiện phát triển, nhiều thợ giỏi phải làm công việc khác kiếm sống.
Ngay cả khi ngành ngoại thương tổ chức sản xuất để xuất khẩu, thợ giỏi cũng ăn công điểm, nên luôn luôn phải chạy theo số lượng sản phẩm. Một số người nổi lên được Nhà nước tặng danh hiệu nghệ nhân, nhưng cũng không có chế độ đãi ngộ và sử dụng thích đáng.
Trong Hội nghề truyền thống 1995 do Bộ Văn Hóa Thông Tin và Hội Văn Nghệ Dân Gian Việt Nam tổ chức tại Trung tâm Văn Hóa Nghệ Thuật đã thu hút được gần 60 đơn vị, cá nhân thuộc 12 tỉnh thành mang sản phẩm truyền thống đến trưng bày và bán, nhằm tôn vinh, bảo tồn và phát triển các nghề thủ công truyền thống.
Tất cả đã cho thấy một sự khởi sắc của hoạt động thủ công nghệ thuật Việt Nam, từ khi chuyển cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường. Cuối Hội nghề có tổ chức cuộc hội thảo khoa học, giữa các nghệ nhân với các nhà nghiên cứu.
Ở đấy, bên cạnh sự hồ hởi, khẳng định những cơ sở có tài tổ chức, lấy chất lượng làm uy tín, ăn nên làm ra thì cũng có nhiều tiếng kêu cứu từ các làng nghề. Trước hết, là giá trị văn hóa của các mặt hàng thủ công nghệ thuật, không được coi trọng đúng mức.
Các nghệ nhân một thời kỳ dài bị thả nổi, và nay ra đi gần hết, các trường mỹ nghệ ít được chăm sóc và trong ý thức của nhiều nhà văn hóa chính thống còn coi thường, các hội thi Trí xảo không được tổ chức, ý thức trách nhiệm bảo vệ danh dự làng nghề rời rã mà mạnh ai nấy làm.
Mẫu mã tốt của ông cha bị mai một, mẫu mã mới không được sáng tác, thị hiếu thẩm mỹ không được giáo dục đã chạy theo những mẫu tầm thường của nước ngoài. Vắng mẫu cổ truyền, thiếu mẫu đẹp mới, ít đầu tư cho khâu sáng tạo, nhiều mặt hàng chỉ là sự lặp đi lặp lại đại trà, không có giá trị độc đáo nghệ thuật.
Hàng thủ công nghệ thuật thường gọi là đồ mỹ nghệ, có nghĩa phải đẹp và tinh. Có mẫu đẹp muốn tinh xảo phải có bàn tay nghệ nhân, với kinh nghiệm tích tụ tạo ra những miếng nghề.
Những mẹo vặt nhiều khi đơn giản nhưng thật bất ngờ, phải quen tay hay mắt mới làm được. Những bí quyết nhà nghề, chỉ sống trong đầu và đôi tay của các nghệ nhân lão luyện, mà họ chỉ có thể truyền cho người thân tín nhất, nếu không thì khi ra đi, đành mang theo nghề ông cha.
Hơn nữa, muốn làm tinh phải mất nhiều thời gian, mà quy luật kinh tế trong điều kiện định mức kỹ thuật tính trước, không cho phép người thợ, nhất là khi làm gia công thực hiện.
Hàng mỹ nghệ phải đẹp và bền, khi đã đạt giá trị văn hóa và sự tinh xảo, thì trở thành gia bảo truyền đời. Như vậy, nguyên liệu phải tốt và quy trình kỹ thuật phải đảm bảo. Đồ mộc chạm phải dùng gỗ quý (trắc, gụ, cẩm lai, sa mu, hoàng đàn,…) ngày nay đang hiếm, giá lên rất nhiều lần.
Để giảm giá, người ta phải tận dụng cả gỗ thải loại, thậm chí dùng gỗ xấu rồi tẩy nhuộm màu. Đồ sơn mài chẳng những cần vật tư tốt, còn cần phải có thời gian với từng công đoạn kỹ thuật, nhưng cả sơn, gỗ, vàng, bạc và thời gian đều cải tiến làm cho phẩm chất hàng xuống cấp nhanh. Ngày nay, nhiều hàng tốt, xấu, thật, giả lẫn lộn.
Dù có quan tâm đến các giá trị trên, nhưng nếu thiếu khâu tổ chức, lưu thông thì hàng thủ công nghệ thuật vẫn chưa phát triển với đúng ý nghĩa của nó được.
Nhà nước cần có chế độ chăm sóc nghệ nhân, khuyến khích các gia đình có nghề truyền thống cha truyền con nối, tổ chức sưu tầm và giới thiệu các mẫu cổ truyền, tổ chức các hội Trí xảo để tuyển chọn mẫu tốt và đăng ký trình tòa, để bảo đảm quyền tác giả, ngăn cấm và trừng phạt các hàng giả, không cho lưu thông các hàng kém phẩm chất.
Cung cấp nguyên liệu quý hiếm, cấp giấy phép xuất khẩu trực tiếp để tránh các cầu dịch vụ ăn chặn, bãi bỏ những thủ tục nhiêu khê ở các cửa khẩu, để du khách đỡ chán nản, có chính sách thuế và thu thuế rõ ràng,…
Như vậy, phải có một cơ quan quản lý Nhà nước chuyên trách, và hữu hiệu để các ngành hữu quan cùng chăm lo, thì nghề thủ công nghệ thuật mới phát triển được.
Giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa trong các nghề thủ công nghệ thuật, là thiết thực chăm lo đời sống kinh tế văn hóa, chẳng những hôm nay mà còn cho ngày mai, cho trong nước và cho thế giới, cho danh giá Việt Nam trên trường quốc tế.
Tác giả: Chu Quang Trứ
Bạn đang xem bài viết:
Giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa nghề thủ công nghệ thuật
Link https://vnlibs.com/dieu-khac/giu-gin-va-nang-cao-ban-sac-van-hoa-nghe-thu-cong-nghe-thuat.html